Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĐ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 20/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 12/2021/QĐST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Chu Văn Đ. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1998 tại huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 6, xã NA, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không xác định được và bà Nguyễn Thị Châu, sinh năm 1968; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/5/2021 cho đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Chị Trần Thị H. Sinh năm 1993. Nơi cư trú: Khối Vạn An, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 03 giờ 00 phút ngày 19/5/2021, Chu Văn Đ đang đi bộ lang thang tại thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An thì nảy sinh ý định trộm xe mô tô để làm phương tiện di chuyển. Khi đến khu vực khối Vạn An, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An thì Đức phát hiện cửa nhà chị Trần Thị H không khóa cửa cổng, Đức mở cửa đi vào trong thì thấy một chiếc xe mô tô dựng ở sân, không có chìa khóa. Đức tiếp tục mở chốt cửa đi vào trong nhà thì phát hiện một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave An pha, màu đen bạc, biển kiểm soát 37M1-604.37 của chị Trần Thị H, chìa khóa đang cắm ở ổ khóa. Đức lén lút đưa chiếc xe trên đi vào khỏi nhà và nổ máy chạy thoát.

Ngày 20/5/2021, Đức đến Công an huyện NĐ đầu thú về hành vi trộm cắp và giao nhận tài sản là chiếc xe mô tô đã trộm.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 08/KLĐGTS ngày 25/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xác định:

- 01 (một) chiếc xe mô tô, biển kiểm soát 37M1-604.37, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave an pha, màu đen bạc, xe vẫn hoạt động bình thường, có giá 10.000.000 đồng (Mười triệu).

Cáo trạng số 44/CT-VKS-NĐ ngày 16/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ truy tố Chu Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Chu Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Chu Văn Đ mức án từ 06 đến 08 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng, trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì nên miễn xét;

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo Chu Văn Đ đồng ý với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có tranh luận gì. Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm về với mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt bị hại nhưng đều có đơn xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Chu Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 19/5/2021, Chu Văn Đ đã có hành vi lén lút đột nhập vào nhà của chị Trần Thị H tại khối Vạn An, thị trấn NĐ, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An trộm cắp tài sản là 01 chiếc xe mô tô, biển kiểm soát 37M1-604.37, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave an pha, màu đen bạc, có giá 10.000.000 đồng (Mười triệu). Hành vi trên của bị cáo Chu Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do đó cần xử nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo do bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội đã đầu thú.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Trần Thị H 01 chiếc xe mô tô, biển kiểm soát 37M1-604.37, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave an pha, màu đen bạc. Nay chị Hóa không có yêu cầu gì về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và điều luật áp dụng: Tuyên bố bị cáo Chu Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Chu Văn Đ: 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/5/2021.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Chu Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 38/2021/HS-ST

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về