Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 22/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 43/2023/TLST - HS ngày 08 tháng 5 năm 2023 đối với:

* Bị cáo: Trần Văn P, tên gọi khác: P Giới, sinh ngày 28 tháng 11 năm 1989; tại Đ. Nơi cư trú: tổ 57 phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ; nghề nghiệp: lao động phổ thông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N (sinh năm: 1966), con bà Trần Thị H (sinh năm: 1967); cùng trú: tổ 57 phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ; Gia định bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; có vợ là Trịnh Thị L (sinh năm 1989) và 02 con (con lớn sinh năm: 2014, con nhỏ sinh năm: 2017).

Tiền án, tiền sự: chưa;

Nhân thân: Ngày 26/7/2018, bị Công an phường Thọ Quang, quận S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản;

Bị cáo bị bắt để tạm giam ngày 30.3.2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an quận S, thành phố Đ.

1. Chị Nguyễn Thị L. Sinh năm 1984. Trú tại: tổ 45, phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Văn T. Sinh năm 1976. Trú tại: số 66 Nguyễn Thị Hồng, phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ (vắng mặt).

3. Ông Nguyễn Thăng L. Sinh năm 1964. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:

thôn Ngọc Cục, xã Tiên Lãng, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Chổ ở: lô 13, 14, 15, 16 Hoàng Sa, phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ (vắng mặt).

4. Ông Ngô Văn S. Sinh năm 1958. Trú tại: tổ 12, phường Mân Thái, quận S, thành phố Đ (vắng mặt).

5. Anh Hoàng Cao T. Sinh năm 1990. Trú tại: 34 An Thượng 2, quận N, thành phố Đ (vắng mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đỗ Trọng T1. Sinh năm 1991. Trú tại: tổ 23, phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp cho anh Đỗ Trọng T1: ông Đỗ Trọng Ý. Sinh năm: 1958. Trú tại: số 09 Nguyễn Đăng Tuyển, phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ (có mặt).

2. Anh Kiều Văn L. Sinh năm 1973. Trú tại: 24 Lê Tấn T, phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ (vắng mặt).

3. Anh Phan Văn H. Sinh năm 1975. Trú tại: tổ 37, phường Thọ Quang, quận S, thành phố Đ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu xài cho bản thân, từ ngày 12/01/2023 đến 20/02/2023 Trần Văn P đã 05 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trên địa bàn quận S, thành phố Đ, cụ thể như:

Vụ thứ nhất: Khoảng 18 giờ ngày 12/01/2023, Trần Văn P đi bộ vào khu vực T Vinh, phường Thọ Quang, quận S. Khi đi ngang qua số nhà K40/6 T Vinh 3, phường Thọ Quang thì P phát hiện thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen, BKS 43S6-xxxx của chị Nguyễn Thị L đang dựng trước cổng nhà, không có người trông coi nên P nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này. Sau khi quan sát xung quanh thì thấy có 01 chìa khóa rơi trên đường gần đó, P nhặt lên và cắm vào xe mô tô trên thì mở được khóa nên P điều khiển xe bỏ đi. Khi di chuyển trên đường Lê Văn Lương, phường Thọ Quang thì P thấy có 01 biển số 65A6-xxxx nên P nhặt lấy và đến tiệm sửa xe tại địa chỉ 09 Nguyễn Đăng Tuyển, phường Thọ Quang yêu cầu anh Đỗ Trọng T1 (là đối tượng bị bệnh tâm thần mãn tính) tháo gỡ phần manh trước của xe và gỡ biển số 43S6-xxxx thay bằng biển số 65A6-xxxx vào xe vừa trộm được. Anh T1 có hỏi nguồn gốc xe thì P nói đó là xe P vừa mua phế liệu, do nhặt được biển số xe 65A6-xxxx thấy đẹp nên P thay vào. Anh T1 không biết đây là xe do P trộm cắp nên đã thực hiện theo yêu cầu của P. Sau đó, P sử dụng xe này làm phương tiện đi lại.

Tang vật thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen, BKS 43S6-xxxx;

- 01 BKS 65A6-xxxx;

Tại kết luận số: 12/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 15/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận S xác định: 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen, BKS 43S6-xxxx có giá trị 3.500.000 đồng.

Về bồi thường dân sự: Chị Nguyễn Thị L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Qua điều tra xác định: Xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen, BKS 43S6-xxxx do anh Tạ Danh T (Sinh năm 1979; Trú: Tổ 45, phường Thọ Quang, quận S - là chồng của chị Nguyễn Thị L) mua vào năm 2006 và đứng tên chủ sở hữu. Do anh T thường xuyên đi công tác nên giao xe này cho chị L quản lý, sử dụng đến ngày 12/01/2023 thì bị mất.

Vụ thứ hai: Khoảng 15 giờ ngày 21/01/2023, Trần Văn P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen, gắn biển kiểm soát 65A6-xxxx (là xe P đã trộm cắp được vào ngày 12/01/2023) đi trên đoạn đường Nguyễn Thị Hồng, phường Thọ Quang, quận S, khi đến trước số nhà 66 Nguyễn Thị Hồng, P thấy có 01 bao đồ của anh Nguyễn Văn T (Sinh năm 1976; Trú: Số 66 Nguyễn Thị Hồng, phường Thọ Quang, quận S) để trên vỉa hè trước nhà, không có người trông coi nên dừng lại và đến kiểm tra thì phát hiện trong bao có 01 máy bơm lốp xe ô tô điện tử loại Toyota màu đen, 01 máy hút bụi xe ô tô hiệu lifepro màu xanh đen và 01 kiềm sắt. P lén lút lấy bao đồ mang đi. Khi di chuyển trên đường Lê Tấn T, phường Thọ Quang, quận S thì gặp 01 người phụ nữ (không rõ nhân thân lai lịch) thu mua phế liệu nên P đã bán 01 máy bơm lốp xe ô tô điện tử loại Toyota màu đen, 01 máy hút bụi xe ô tô hiệu lifepro màu xanh đen cho người này được số tiền 300.000 đồng, toàn bộ số tiền này P đã tiêu xài hết.

Tang vật thu giữ:

- 01 kiềm sắt.

Tại Kết luận số: 12/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 15/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận S xác định: 01 máy bơm lốp xe ô tô điện tử loại Toyota màu đen có giá trị 1.000.000 đồng; 01 máy hút bụi xe ô tô hiệu lifepro màu xanh đen có giá trị 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 1.500.000 đồng. Đối với 01 kiềm sắt mua đã lâu không có giá trị nên cơ quan điều tra không tiến hành định giá.

Về bồi thường dân sự: Anh Nguyễn Văn T yêu cầu bồi thường lại số tiền tương ứng với số tài sản đã bị mất không thu hồi được.

Vụ thứ ba: Khoảng 12 giờ ngày 27/01/2023, P sử dụng xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen, gắn biển kiểm soát 65A6-xxxx (là xe P đã trộm cắp được vào ngày 12/01/2023) đi vào kiệt 166 Nguyễn Phan Vinh, phường Thọ Quang, quận S thì phát hiện có 02 đoạn dây điện 3 pha được nối từ trụ điện (trước số nhà K166/28 Nguyễn Phan Vinh, phường Thọ Quang, quận S) dẫn vào nhà tại địa chỉ lô 13, 14, 15, 16 Hoàng Sa, phường Thọ Quang của ông Nguyễn Thăng L làm chủ, không có ai ở nhà nên P nảy sinh ý định cắt trộm 02 đoạn dây điện trên. Đến tối ngày 27/01/2023. P đột nhập vào nhà ông L thì phát hiện 02 đoạn dây điện trên đã được cắt sẵn nên P trèo ra ngoài. Đến ngày 28/01/2023, P quay trở lại nhà ông L rồi dùng kiềm sắt (đã trộm cắp được vào ngày 21/01/2023) cắt 02 đoạn dây điện tại trụ điện bên ngoài nhưng do phần dây điện bên trong bị mắc kẹt tại điểm nối vào nhà nên không lấy được. P đi đến khu vực đường Ngô Quyền thì thấy 01 cái thang tại vỉa hè nên mang về nhà cất giữ. Đến trưa ngày 30/01/2023, P quay lại nhà ông L dùng thang bắt lên phần bờ tường để kéo đoạn dây điện trong nhà ra thì bị lực lượng Công an phường phát hiện, mời về trụ sở cơ quan làm việc.

Tang vật thu giữ: 02 đoạn dây điện 3 pha, dài khoảng 7,5m/đoạn.

Tại Kết luận số: 12/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 15/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận S xác định: 02 dây điện 3 pha, dài khoảng 7,5m/đoạn có giá trị 750.000 đồng.

Về bồi thường dân sự: Ông Nguyễn Thăng L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Vụ thứ tƣ: Khoảng 11 giờ ngày 17/02/2023, Trần Văn P phát hiện ngôi nhà tại địa chỉ ngã ba đường Nguyễn Trực - Hà Tông Huân, phường Thọ Quang, quận S khóa cổng, không có người trông coi, trước sân nhà có để 01 xe đạp thể thao nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này. P dùng 01 trục vít rồi mở chốt hàng rào, sau đó dùng tay và chân bẻ cong hàng rào rồi đột nhập vào nhà, lấy trộm 01 xe đạp thể thao của ông Ngô Văn S. Sau đó, P mang xe vừa trộm cắp được đến tiệm sửa chữa, mua bán xe của anh Kiều Văn L để bán. Anh L có hỏi nguồn gốc xe thì P nói là xe của P nên anh L đồng ý mua với giá 650.000 đồng. Số tiền bán xe P đã tiêu xài hết.

Tang vật thu giữ: 01 xe đạp thể thao, có dòng chữ màu vàng chạy dọc thân xe ghi chữ Cannondale;

Tại Kết luận số: 20/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 21/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận S xác định: 01 xe đạp thể thao, có dòng chữ màu vàng chạy dọc thân xe ghi chữ Cannondale có giá trị 5.000.000 đồng.

Về bồi thường dân sự: Ông Ngô Văn S đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm. Anh Kiều Văn L không yêu cầu bồi thường.

Vụ thứ năm: Khoảng 19 giờ ngày 20/2/2023, P đột nhập vào một công trình xây dựng tại đường Lê Văn Lương, phường Thọ Quang, quận S thì phát hiện 01 bao tải bên trong có 01 máy hàn điện tử hiệu Ken Max màu cam có 02 cuộn dây điện kèm theo máy, 01 máy mài cầm tay, 01 máy rô tơ điện màu xanh của anh Hoàng Cao T nên đã lấy trộm toàn bộ tài sản này. Sau đó, P mang đến bán cho anh Phan Văn H. Anh H có hỏi nguồn gốc tài sản thì P nói đây là tài sản của P không dùng nữa nên bán. Anh H đồng ý mua với với số tiền 400.000 đồng. Toàn bộ số tiền này P đã tiêu xài hết.

Tang vật thu giữ:

- 01 máy hàn cầm tay hiệu Ken Max màu cam có 02 cuộn dây điện kèm theo máy;

- 01 máy mài cầm tay;

- 01 máy rô tơ điện màu xanh.

Tại Kết luận số: 20/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 21/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận S xác định: 01 máy hàn điện tử hiệu Ken Max màu cam có 02 cuộn dây điện kèm theo máy có giá trị 700.000 đồng; 01 máy mài cầm tay có giá trị 300.000 đồng; 01 máy rô tơ điện màu xanh có giá trị 300.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 1.300.000 đồng.

Về bồi thường dân sự: Anh Phan Văn H không yêu cầu bồi thường; anh Hoàng Cao T yêu cầu trả lại bộ đồ nghề bị P chiếm đoạt để đi làm và không yêu cầu bồi thường gì.

Theo Cáo trạng số 43/CT-VKS ngày 08.5.2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận S, Trần Văn P bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đ thực hành quyền công tố luận tội: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn P thừa nhận: từ ngày 12/01/2023 đến 21/02/2023, tại địa bàn quận S, thành phố Đ, Trần Văn P đã 05 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản (trong đó có 02 lần đủ yếu tố cấu thành tội phạm) gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen, BKS 43S6-xxxx trị giá 3.500.000 đồng của chị Nguyễn Thị L; 01 máy bơm lốp xe ô tô điện tử loại Toyota màu đen, 01 máy hút bụi xe ô tô hiệu lifepro màu xanh đen và 01 kiềm sắt với tổng giá trị 1.500.000 đồng của anh Nguyễn Văn T; 02 đoạn dây điện 3 pha, dài khoảng 7,5m/đoạn trị giá 750.000 đồng của ông Nguyễn Thăng L; 01 xe đạp thể thao, có dòng chữ màu vàng chạy dọc thân xe ghi chữ Cannondale trị giá 5.000.000 đồng của ông Ngô Văn S; 01 máy hàn cầm tay hiệu Ken Max màu cam có 02 cuộn dây điện kèm theo máy, 01 máy mài cầm tay và 01 máy rô tơ điện màu xanh với tổng giá trị 1.300.000 đồng của anh Hoàng Cao T nhằm bán lấy tiền tiêu xài. Tổng giá trị tài sản mà Trần Văn P đã chiếm đoạt là 12.050.000 đồng. Lời thừa nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu tập trong hồ sơ vụ án. Do đó, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Văn P và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội “trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn P từ 18 đến 24 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt kể từ ngày 30.3.2023.

Đề nghị truy thu số tiền 1.050.000 đồng tiền thu lợi bất chính từ việc bị cáo bán các tài sản trộm cắp của ông Ngô Văn S và anh Hoàng Cao T để sung vào công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 biển số xe 65A6-xxxx - là biển số P khai đã nhặt được ngoài đường nên lắp vào xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen (là xe P trộm cắp được của chị Nguyễn Thị L) để sử dụng làm phương tiện đi lại, tránh bị chủ xe phát hiện, Cơ quan CSĐT Công an quận S đã có công văn xác minh đối với biển số xe nêu trên nhưng đến nay chưa có kết quả, do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận S tách ra điều tra xác minh, xử lý sau là phù hợp.

- Đối với các anh Đỗ Trọng T1, Kiều Văn L, Phan Văn H, do không biết những tài sản Trần Văn P mang đến bán và nhờ thay biển số là tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan CSĐT Công an quận S không đề cập xử lý là có cơ sở.

* Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Những người bị hại là chị Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Thăng L, ông Ngô Văn S đã nhận lài tài sản nên không yêu cầu bồi thường; anh Phan Văn H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng không yêu cầu bồi thường lại số tiền 400.000 đồng đã mua tài sản trộm cắp của Trần Văn P nên không đề cập đến.

- Đối với anh Nguyễn Văn T yêu cầu bồi thường lại số tiền tương ứng với số tài sản đã bị mất không thu hồi được là 1.500.000 đồng (gồm 01 máy bơm lốp xe ô tô điện tử loại Toyota màu đen có giá trị 1.000.000 đồng; 01 máy hút bụi xe ô tô hiệu lifepro màu xanh đen có giá trị 500.000 đồng), đây là tài sản hợp pháp của anh T nên cần chấp nhận buộc bị cáo P phải bồi thường lại cho anh T là phù hợp.

(Đối với 01 kiềm sắt mua đã lâu không có giá trị nên cơ quan điều tra không tiến hành định giá) * Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 kiềm sắt; 01 máy hàn cầm tay hiệu Ken Max màu cam có 02 cuộn dây điện kèm theo máy; 01 máy mài cầm tay và 01 máy rô tơ điện màu xanh Cơ quan CSĐT Công an quận S đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 26 ngày 26/4/2023 trả lại cho anh Nguyễn Văn T và Hoàng Cao T nhưng đến nay anh T và T chưa đến nhận lại tài sản này.

Do đó, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự trả lại cho anh Nguyễn Văn T và Hoàng Cao T các tài sản nói trên (Vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, biên bản giao nhận vật chứng ngày15/5/2023).

Tại phiên tòa bị cáo trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã biết ăn năn hối cải vì hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và những người tham gia tố tụng khác, cũng như phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Để có tiền tiều xài cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 12/01/2023 đến 21/02/2023, tại địa bàn quận S, thành phố Đ, Trần Văn P đã 05 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen, BKS 43S6-xxxx trị giá 3.500.000 đồng của chị Nguyễn Thị L; 01 máy bơm lốp xe ô tô điện tử loại Toyota màu đen, 01 máy hút bụi xe ô tô hiệu lifepro màu xanh đen và 01 kiềm sắt với tổng giá trị 1.500.000 đồng của anh Nguyễn Văn T; 02 đoạn dây điện 3 pha, dài khoảng 7,5m/đoạn trị giá 750.000 đồng của ông Nguyễn Thăng L; 01 xe đạp thể thao, có dòng chữ màu vàng chạy dọc thân xe ghi chữ Cannondale trị giá 5.000.000 đồng của ông Ngô Văn S; 01 máy hàn cầm tay hiệu Ken Max màu cam có 02 cuộn dây điện kèm theo máy, 01 máy mài cầm tay và 01 máy rô tơ điện màu xanh với tổng cộng 1.300.000 đồng của anh Hoàng Cao T. Tổng giá trị tài sản mà Trần Văn P đã chiếm đoạt là 12.050.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội; đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đ đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Trong 5 lần bị cáo chiếm đoạt tài sản, có 02 lần chiếm đoạt tài sản của chị L và của anh S là trên 2000.000 đồng nên bị cáo đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu: ngày 26/7/2018, bị Công an phường Thọ Quang, quận S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo chưa nộp phạt nhưng Công an phường Thọ Quang, quận S cũng không ra Quyết định cưỡng chế thi hành quyết định này nên tính đến thời điểm bị cáo phạm tội đã quá thời hạn 01 năm nên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 26/7/2018 đã hết thời hiệu thi hành. Do đó, cần phải xét xử bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, phải cách ly bị bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn rõ ràng, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

[3] Đối với 01 biển số xe 65A6-xxxx – là biển số P khai đã nhặt được ngoài đường nên lắp vào xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đỏ đen (là xe P trộm cắp được của chị Nguyễn Thị L) để sử dụng làm phương tiện đi lại, tránh bị chủ xe phát hiện, Cơ quan CSĐT Công an quận S đã có công văn xác minh đối với biển số xe nêu trên nhưng đến nay chưa có kết quả, do đó, Cơ quan CSĐT Công an quận S tách ra điều tra xác minh, xử lý sau là phù hợp.

- Đối với các anh Đỗ Trọng T1, Kiều Văn L, Phan Văn H, do không biết những tài sản Trần Văn P mang đến bán và nhờ thay biển số là tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan CSĐT Công an quận S không đề cập xử lý là có cơ sở.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Những người bị hại là chị Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Thăng L, ông Ngô Văn S đã nhận lài tài sản nên không yêu cầu bồi thường; anh Phan Văn H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng không yêu cầu bồi thường lại số tiền 400.000 đồng đã mua tài sản trộm cắp của Trần Văn P nên không đề cập đến.

[5] Đối với anh Nguyễn Văn T yêu cầu bồi thường lại số tiền tương ứng với số tài sản đã bị mất không thu hồi được là 1.500.000 đồng (gồm 01 máy bơm lốp xe ô tô điện tử loại Toyota màu đen có giá trị 1.000.000 đồng; 01 máy hút bụi xe ô tô hiệu lifepro màu xanh đen có giá trị 500.000 đồng), đây là tài sản hợp pháp của anh T mà bị cáo P đã chiếm đoạt, việc anh T yêu cầu bị phải bồi thường lại cho anh là phù hợp với quy định tại các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự nên cần buộc bị cáo P phải bồi thường lại cho anh T số tiền 1.500.000 đồng là phù hợp.

(Đối với 01 kiềm sắt mua đã lâu không có giá trị nên cơ quan điều tra không tiến hành định giá) [6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 kiềm sắt; 01 máy hàn cầm tay hiệu Ken Max màu cam có 02 cuộn dây điện kèm theo máy; 01 máy mài cầm tay và 01 máy rô tơ điện màu xanh Cơ quan CSĐT Công an quận S đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 26 ngày 26/4/2023 trả lại cho anh Nguyễn Văn T và Hoàng Cao T nhưng đến nay anh T và T chưa đến nhận lại tài sản này, hiện đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận S để bảo quản.

Do đó, Chi cục Thi hành án dân sự quận S tiếp tục giữ và bảo quản các tài sản nói trên để trả lại cho anh Nguyễn Văn T và Hoàng Cao T theo Quyết định xử lý vật chứng số 26 ngày 26/4/2023 của Cơ quan CSĐT Công an quận S (Biên bản giao nhận vật chứng ngày15/5/2023).

[7] Về án phí: bị cáo Trần Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ và án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Trần Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1/ Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn P 18 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt kể từ ngày 30.3.2023.

Biện pháp tư pháp: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, buộc bị cáo nộp lại số tiền 1.050.000 đồng tiền thu lợi bất chính từ việc bị cáo bán các tài sản trộm cắp của ông Ngô Văn S và anh Hoàng Cao T để sung vào công quỹ Nhà nước.

2/ Căn cứ các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật dân sự; buộc bị cáo Trần Văn P phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn T số tiền 1.500.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3/ Về xử lý vật chứng:

Tiếp tục giữ và bảo quản 01 kiềm sắt; 01 máy hàn cầm tay hiệu Ken Max màu cam có 02 cuộn dây điện kèm theo máy; 01 máy mài cầm tay và 01 máy rô tơ điện màu xanh tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S để trả lại cho anh Nguyễn Văn T và Hoàng Cao T theo Quyết định xử lý vật chứng số 26 ngày 26/4/2023 của Cơ quan CSĐT Công an quận S (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/5/2023).

3/ Án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ và án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng bị cáo Trần Văn P phải chịu.

Án xử công khai, bị cáo Trần Văn P, ông Đỗ Trọng Ý có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại là chị Nguyễn Thị L, anh Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Thăng L, ông Ngô Văn S, anh Hoàng Cao T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Đỗ Trọng T1, anh Kiều Văn L, anh Phan Văn H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2023/HS-ST

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về