Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC S - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 18/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18/7/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2023/HSST ngày 02 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Bùi Văn Y, sinh ngày 30 tháng 12 năm 1999 tại xã Tân L, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm Lâu Kỵ, xã Tân L, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn Ch, sinh năm 1972 và bà Bùi Thị Ng, sinh năm 1971; Bị cáo là con thứ ba trong gia đình có ba anh em; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: chưa; Nhân thân: Ngày 19/12/2014 bị Công an huyện Lạc S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2023. Có mặt.

- Người bị hại: Bà Bùi Thị L, sinh năm 1972. Địa chỉ: xóm Trại Sào, xã Tân L, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Bùi Văn T, sinh năm 1971. Địa chỉ: xóm Trại Sào, xã Tân L, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

+ Anh Bùi Văn N, sinh năm 1989. Địa chỉ: xóm Lâu Kỵ, xã Tân L, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Bùi Văn Kh. Vắng mặt.

+ Bà Bùi Thị Nh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 10/9/2023 Bùi Văn Y, sinh năm 1999, trú tại xóm Lâu Kỵ, xã Tân L, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình đang ở nhà thì nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của gia đình chị Bùi Thị L, sinh năm 1972, trú tại xóm Trại Sào, xã Tân L, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình nên Y đã cầm 01 (một) thanh sắt dài khoảng 30cm (thường dùng để tháo lốp xe máy) của Bùi Văn N, sinh năm 1989 (là anh trai ruột của Y) đến nhà chị L. Tại nhà chị L, Bùi Văn Y quan sát thấy không có ai ở nhà, chỉ có hai người già là ông Bùi Văn Kh, sinh năm 1937 và bà Bùi Thị Nh, sinh năm 1939 (là ông bà ngoại của Y) đang ở gian nhà cấp bốn ở bên cạnh nhà sàn của gia đình chị L. Lúc này Bùi Văn Y kéo cửa bếp của gia đình chị L ra và đi lên cầu thang để lên nhà sàn, sau đó Y đi đến vị trí chiếc két sắt đặt ở giữa nhà sàn, đồng thời lấy 01 (một) đoạn sắt phi 6 (sáu) dài khoảng 30cm tại giá để đồ của gia đình chị L dùng để cậy cửa két sắt và tiếp tục dùng thanh sắt mang theo và đoạn sắt phi 6 (sáu) cậy phá cánh cửa két sắt. Cậy phá được cửa két sắt, Y tiếp tục lấy 01 (một) con dao găm treo ở trên tường nhà chị L và đoạn sắt phi 6 (sáu) cậy phá ngăn tủ thứ hai trong két sắt. Phá được ngăn tủ thứ hai trong két sắt Bùi Văn Y thấy có 01 (một) cọc tiền mệnh giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) và một số hộp màu đỏ dùng để đựng trang sức, Y mở các hộp màu đỏ dùng để đựng trang sức ra thì thấy có 01 (một) sợi dây chuyền Vàng (loại 9999). Y cầm lấy toàn bộ số tiền và dây chuyền vàng có trong két sắt cất vào bên trong túi quần bên phải của mình và cầm theo thanh sắt dùng để tháo lốp xe máy rời khỏi hiện trường, còn con dao găm và đoạn sắt phi 6 (sáu) Y lại để vào vị trí cũ trong nhà chị L. Đi được khoảng 50m thì Bùi Văn Y vứt thanh sắt dùng để tháo lốp xe máy vào ống cống thoát nước của nhà dân gần đó, đồng thời gọi xe ghép đi ra Hà Nội. Trong khi đợi xe ghép Y bỏ cọc tiền vừa trộm cắp được ra kiểm đếm được 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng). Toàn bộ số tiền trộm cắp được Y tiêu xài cá nhân hết, khoảng vài ngày sau đó Y tiếp tục bán dây chuyền vàng trộm cắp được của gia đình chị L cho một cửa hàng kinh doanh vàng bạc không rõ địa chỉ ở Hà Nội được số tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng) và cũng chi tiêu ăn uống hết. Đến ngày 02/3/2023 Bùi Văn Y đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc S đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐGTS ngày 25/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạc S kết luận: 01 (một) sợi dây chuyền vàng ta (Loại 9999), có khối lượng 03 (ba) chỉ, mua mới vào tháng 12/2021 có giá trị là 15.450.000đ (Mười lăm triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng); 01 (một) chiếc két sắt nhãn hiệu VIỆT TIỆP, loại K40, số seri: 67422, màu sơn: Xanh - Vàng, két cũ đã qua sử dụng có giá trị là 1.000.000đ (Một triệu đồng).

- Việc thu giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

+ 01 (một) con dao găm bằng kim loại, có tổng chiều dài 47cm, chuôi dao dài 16,5cm, phần lưỡi dao dài 30,5cm, phần lớn nhất của vỏ dao rộng 5,5cm, phần nhỏ nhất của vỏ dao rộng 2,5cm. Con dao, vỏ dao cũ đã qua sử dụng.

+ 01 (một) chiếc Két sắt nhãn hiệu VIỆT TIỆP, loại K40, số seri: 67422, màu sơn: Xanh - Vàng, cửa két bị hư hỏng có nhiều vết cạy phá.

Các vật chứng trên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc S chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc S quản lý chờ xử lý.

+ Đối với 01 (một) thanh sắt phi 6 (sáu) dài khoảng 30cm và 01 (một) thanh sắt dùng để tháo lốp xe dài khoảng 30cm bị cáo Y khai đã bỏ lại trên nhà sàn của gia đình chị L và vứt xuống ống cống thoát nước của nhà dân ở xóm Trại Sào, xã Tân L ngày 10/9/2022. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc S đã tiến hành truy tìm nhưng chưa phát hiện và thu giữ được.

+ Đối với số tiền 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng) và 01 (một) sợi dây chuyền vàng (loại 9999) có trọng lượng 03 chỉ bị cáo Y khai đã bán cho cửa hàng vàng bạc ở Hà Nội nhưng không rõ địa chỉ cụ thể. Toàn bộ số tiền mặt và tiền bán vàng do trộm cắp được bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc S chưa thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là chị Bùi Thị L yêu cầu bị cáo Bùi Văn Y bồi thường thiệt hại về tài sản tổng số tiền là 95.000.000đ (Chín mươi lăm triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn Y đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

Tại bản cáo trạng số: 31/CT-VKS ngày 02/6/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc S đã quyết định truy tố bị cáo Bùi Văn Y về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Y và người bị hại Bùi Thị L đã thống nhất số tiền bị cáo phải bồi thường là 95.000.000đ (Chín mươi lăm triệu đồng). Hiện tại bị cáo chưa bồi thường được đồng nào.

Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát công bố bản luận tội. Nội dung bản luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt Bùi Văn Y từ 42 đến 48 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 173 BLHS đối với bị cáo do không có tính khả thi.

Vật chứng của vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 587; 589 Bộ luật Dân sự, Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự công nhận sự thỏa thuận giữa người bị hại và bị cáo. Theo đó, bị cáo Bùi Văn Y phải bồi thường cho bà Bùi Thị L số tiền 95.000.000đ (Chín mươi lăm triệu đồng).

Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố, nội dung bản luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về hòa nhập với cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lạc S, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạc S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 10/9/2022 do không có tiền tiêu xài cá nhân, Bùi Văn Y đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, không có người trông coi, quản lý tài sản, đã lén lút lấy trộm tài sản gồm 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng tiền mặt (VNĐ)) và 01 (một) sợi dây chuyền vàng (loại 9999) có trọng lượng 03 chỉ trị giá 15.450.000đ (Mười lăm triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) của gia đình chị Bùi Thị L. Tổng giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 95.450.000đ (Chín mươi lăm triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng). Bùi Văn Y là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của Bùi Văn Y phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc S truy tố bị cáo Bùi Văn Y về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, không những gây thiệt hại về tài sản mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu. Ngày 19/12/2014 bị cáo bị Công an huyện Lạc S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét về nhân thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, sinh ra và lớn lên làm ăn tại địa phương, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bùi Văn Y không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6]. Về mức hình phạt: HĐXX xét thấy bị cáo có nhân thân xấu nên cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với bị cáo. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8]. Đối với anh Bùi Văn N là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tuy nhiên Nhì không biết Bùi Văn Y đã sử dụng thanh sắt dùng để tháo lốp xe máy của mình làm công cụ thực hiện hành vi phạm tội, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc S không đề cập xử lý là có căn cứ.

Đối với chủ cửa hàng Vàng bạc ở Hà Nội đã mua sợi dây chuyền vàng (loại 9999) của Bùi Văn Y. Do bị cáo không cung cấp được thông tin lai lịch cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc S không có căn cứ để xác minh làm rõ.

[9]. Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo và người bị hại thỏa thuận với nhau về việc các bị cáo phải bồi thường cho người bị hại số tiền 95.000.000đ (Chín mươi lăm triệu đồng). Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên HĐXX chấp nhận.

[10]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự cần xử lý như sau:

- Đối với 01 (một) con dao găm bằng kim loại, có tổng chiều dài 47cm, chuôi dao dài 16,5cm, phần lưỡi dao dài 30,5cm, phần lớn nhất của vỏ dao rộng 5,5cm, phần nhỏ nhất của vỏ dao rộng 2,5cm. Con dao, vỏ dao cũ đã qua sử dụng. Đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 (một) chiếc Két sắt nhãn hiệu VIỆT TIỆP, loại K40, số seri: 67422, màu sơn: Xanh - Vàng, cửa két bị hư hỏng có nhiều vết cạy phá. Đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Bùi Thị L, vật chứng không còn giá trị sử dụng, bà Bùi Thị L không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) thanh sắt phi 6 (sáu) dài khoảng 30cm và 01 (một) thanh sắt dùng để tháo lốp xe dài khoảng 30cm bị cáo Y khai đã bỏ lại trên nhà sàn của gia đình chị L và vứt xuống ống cống thoát nước của nhà dân ở xóm Trại Sào, xã Tân L ngày 10/9/2022. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc S đã tổ chức truy tìm vật chứng nhưng không tìm thấy nên HĐXX không xem xét.

- Đối với số tiền 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng) và 01 (một) sợi dây chuyền vàng (loại 9999) có trọng lượng 03 chỉ bị cáo Y khai đã bán cho cửa hàng vàng bạc ở Hà Nội nhưng không rõ địa chỉ cụ thể. Toàn bộ số tiền mặt và tiền bán vàng do trộm cắp được bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc S chưa thu hồi được nên HĐXX không xem xét.

[11]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[12]. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

1. Về tội danh: Tuyên bố Bị cáo Bùi Văn Y phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn Y 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/3/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 587; 589 Bộ luật Dân sự, Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự: Công nhận sự thỏa thuận tại phiên tòa giữa bị cáo và người bị hại. Cụ thể: Bị cáo Bùi Văn Y bồi thường số tiền 95.000.000đ (Chín mươi lăm triệu đồng) cho bà Bùi Thị L.

Kể từ ngày người được yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án số tiền nêu trên người phải thi hành án không trả được, thì hàng tháng còn phải trả số tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

4. Về vật chứng: Căn cứ theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) con dao găm bằng kim loại, có tổng chiều dài 47cm, chuôi dao dài 16,5cm, phần lưỡi dao dài 30,5cm, phần lớn nhất của vỏ dao rộng 5,5cm, phần nhỏ nhất của vỏ dao rộng 2,5cm;

- 01 (một) chiếc Két sắt nhãn hiệu VIỆT TIỆP, loại K40, số seri: 67422, màu sơn: Xanh - Vàng, cửa két bị hư hỏng có nhiều vết cạy phá.

Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/6/2023 giữa Công an huyện Lạc S với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc S.

4. Án phí sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án. Bị cáo Bùi Văn Y phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 4.750.000đ án phí dân sự. Tổng cộng bị cáo phải chịu 4.950.000đ án phí.

5. Quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp quyết định, bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2023/HS-ST

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về