Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ L số: 37/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Cà Văn Th, sinh ngày 01/01/1983, tại Y, Mường La, Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nm; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nm; con ông Cà Văn Đôi đã chết và bà Lèo Thị Sinh, sinh 1956; có vợ là Lò Thị Diên, sinh năm 1984; có một con sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không có án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2021; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Tòng Văn T, sinh ngày 07/7/1992, tại Y, Mường La, Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nm; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nm; con ông Tòng Văn Đôi, sinh năm 1964 và bà Tòng Thị Mòn, sinh 1964; có vợ là Lò Thị Hiêng, sinh năm 1996 và có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự, nhân thân: chưa có án tích; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/12/2021; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bị hại:

Ông Tòng Văn L, sinh năm 1966, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt;

Anh Lò Văn T, sinh năm 1989, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt;

Anh Lương Văn T sinh năm 1986, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Lò Văn D, sinh năm 1982, địa chỉ: Bản Đông Luông, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt;

Anh Lèo Văn N, sinh năm 1981, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt;

Chị Lò Thị H, sinh năm 1996, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Cà Văn Th và Tòng Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 27/8/2021 Cà Văn Th, sinh ngày 01/01/1983 đến khu vực lán nương của ông Tòng Văn L, sinh năm 1966, ở bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La tìm tài sản trộm cắp. Cà Văn Th thấy 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010 dựng gần lán nương, thấy không người trông coi, xe vẫn cắm chìa khóa điện. Cà Văn Th lấy xe đi về nhà anh Lò Văn D, sinh năm 1982, địa chỉ: Bản Đông Luông, xã Y, huyện Mường La là em rể. Cà Văn Th nói dối là xe của mình bán với giá 1.200.000, đồng. Anh Lò Văn D đã trả cho Cà Văn Th 1.200.000, đồng. Số tiền có được Cà Văn Th đã chi tiêu hết.

Vụ thứ 2: Khoảng tháng 10/2021 Cà Văn Th đi bộ ra khu vực gần nhà thấy 01 máy bơm nước, để cạnh mương, không thấy người trông coi. Cà Văn Th lấy đem đến nhà anh Lèo Văn N, sinh năm 1981, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La. Cà Văn Th nói dối là của mình bán với giá 480.000, đồng. Anh Lèo Văn N đã trả cho Cà Văn Th 480.000, đồng. Số tiền có được Cà Văn Th đã chi tiêu hết.

Vụ thứ 3: Khoảng 20 giờ ngày 10/11/2021 Cà Văn Th đang ở nhà có Tòng Văn T, sinh ngày 07/7/1992 là người cùng bản đến chơi. Cà Văn Th rủ Tòng Văn T đi trộm cắp, hai người mang theo kìm đến khu vực lán nương của anh Lò Văn T, sinh năm 1989, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La. Hai người cùng hạ các cột trên có dây điện, dùng kìm cắt lấy dây điện cho vào bao tải mang về nhà của Tòng Văn T cất giấu. Đến khoảng 11 giờ sáng ngày 11/11/2021 hai người dùng xe máy loại Dream không biển kiểm soát của Tòng Văn T chở bao tải dây điện đi tìm chỗ bán. Khi đi đến khu vực bản Nang Phai, xã Y, huyện Mường La thì bị phát hiện. hai người bỏ lại xe máy và bao tải dây điện bỏ chạy.

Các người bị hại:

Ông Tòng Văn L, sinh năm 1966, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La có đơn trình báo Công an về việc tài sản bị trộm là 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010.

Anh Lương Văn Tuyền, sinh năm 1986, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La có đơn trình báo Công an về việc tài sản bị trộm là 01 chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W;

Anh Lò Văn T, sinh năm 1989, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La có đơn trình báo Công an về việc tài sản bị trộm là 58m dây điện kích cỡ 2x6x2,5mm và 140m loại 2x4x0,2mm.

Thu giữ vật chứng gồm:

01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010, cũ qua sử dụng;

01 chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W, cũ qua sử dụng;

Cuộn dây điện màu đen, kích cỡ 2x6x2,5mm, có chiều dài 58m, dây cũ qua sử dụng và cuộn dây điện màu đen, kích cỡ 2x4x0,2mm, có chiều dài 140m, dây cũ qua sử dụng.

01 chiếc xe máy loại Dream, màu sơn tím, không biển kiểm soát, không nhãn mác, số khung: MX100F-1120511, số máy: U100F1120564, xe cũ qua sử dụng. Thu giữ của Tòng Văn T.

Ngày 12/11/2021 Hội đồng định giá 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010, cũ qua sử dụng có giá trị là 6.500.000, đồng;

Ngày 01/12/2021 Hội đồng định giá:

Cuộn dây điện màu đen, kích cỡ 2x6x2,5mm, có chiều dài 58m, dây cũ qua sử dụng có giá trị là 2.320.000, đồng; cuộn dây điện màu đen, kích cỡ 2x4x0,2mm, có chiều dài 140m, dây cũ qua sử dụng có giá trị là 2.380.000, đồng;

01 chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W, cũ qua sử dụng có giá trị là 2.800.000, đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, các người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Cà Văn Th và Tòng Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Bản cáo trạng số: 10/CT-VKSML ngày 27 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La truy tố các bị cáo:

Cà Văn Th và Tòng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Cà Văn Th và Tòng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Cà Văn Th từ 24 đến 28 tháng tù.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Tòng Văn T từ 09 đến 16 tháng tù. Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với các bị cáo.

Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho những người bị hại: Ông Tòng Văn L 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010; anh Lương Văn Tuyền 01 chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W; anh Lò Văn T 58m dây điện kích cỡ 2x6x2,5mm và 140m loại 2x4x0,2mm. Đều không yêu bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Lò Văn D mua chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010 do Cà Văn Th bán cho với giá 1.200.000, đồng không biết do trộm cắp mà có. Anh Lò Văn D yêu cầu bị cáo phải bồi thường trả số tiền 1.200.000, đồng.

Anh Lèo Văn N mua chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W do Cà Văn Th bán cho với giá 480.000, đồng không biết do trộm cắp mà có, yêu cầu bị cáo Cà Văn Th phải bồi thường trả số tiền 480.000, đồng.

Đối với 01 chiếc xe máy loại Dream, màu sơn tím, không biển kiểm soát, không nhãn mác, số khung: MX100F-1120511, số máy: U100F1120564, xe cũ qua sử dụng. Thu giữ của Tòng Văn T, sử dụng để chở dây điện trộm cắp, được xác định là tài sản của hai vợ chồng bị cáo. Vợ bị cáo chị Lò Thị Hiêng, sinh năm 1996, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La không biết việc khi bị cáo mang đi chở tài sản trộm cắp và có đơn xin lại tài sản, cần chấp nhận trả lại cho chị chiếc máy.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bao tải dứa màu cam, có kích thước 100x80cm, cũ qua sử dụng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Bị cáo Cà Văn Th phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm. Bị cáo Tòng Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tố tụng: Người bị hại anh Tòng Văn L, anh Lương Văn Tuyền, anh Lò Văn T. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn D, anh Lèo Văn N, chị Lò Thị Hiêng có đề nghị xử vắng mặt, sự vắng mặt không ảnh hưởng đến giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt họ vẫn đảm bảo quyền lợi của họ.

[3]. Tại phiên toà bị cáo Cà Văn Th thừa nhận:

Ngày 27/8/2021 đã lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010, cũ qua sử dụng có giá trị là 6.500.000, đồng của anh Tòng Văn L.

Khoảng tháng 10/2021 đã lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản 01 chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W, cũ qua sử dụng có giá trị là 2.800.000, đồng của anh Lương Văn Tuyền.

Tại phiên toà bị cáo Cà Văn Th và Tòng Văn T thừa nhận: Khoảng 20 giờ ngày 10/11/2021 Cà Văn Th đã cùng Tòng Văn T lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản là cuộn dây điện màu đen, kích cỡ 2x6x2,5mm, có chiều dài 58m, dây cũ qua sử dụng có giá trị là 2.320.000, đồng; cuộn dây điện màu đen, kích cỡ 2x4x0,2mm, có chiều dài 140m, dây cũ qua sử dụng có giá trị là 2.380.000, đồng. Tổng cộng là 4.700.000, đồng của anh Lò Văn T.

Tổng giá trị Cà Văn Th trộm cắp là 14.000.000, đồng.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa ngày hôm Ny phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập: Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; đơn trình báo của người bị hại, lời khai của người làm chứng, lời khai của người liên quan, vật chứng của vụ án, biên bản khám nghiệm hiện trường, Kết luận định giá.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận:

[4]. Đối với hành vi của Cà Văn Th lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản ba lần với tổng giá trị là 14.000.000, đồng đã phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Đối với hành vi của Cà Văn Th đã cùng Tòng Văn T lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản 4.700.000, đồng của các bị cáo đã phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự an toàn xã hội do đó các bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Xét về vai trò đồng phạm: Bị cáo Cà Văn Th với vai trò chủ mưu, đã chủ động rủ rê bị cáo Tòng Văn T. Cần căn cứ Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự để xem xét lên mức hình phạt cho các bị cáo.

[6]. Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Cà Văn Th tại phiên tòa thành khẩn khai báo, bị cáo khai ra hành vi phạm tội trước, bị đầu thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Cà Văn Th phạm tội ba lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là điểm g “Phạm tội 02 lần trở lên” khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân không tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo sống lang thang, sử dụng ma túy, không chấp hành chính sách pháp luật.

Đối với bị cáo Tòng Văn T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại phiên tòa thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân không tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo không chấp hành chính sách pháp luật, sử dụng ma túy, có biểu hiện trộm cắp. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7]. Về hình phạt Bổ sung - Phạt tiền: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo do các bị cáo không có tài sản.

[8]. Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các Điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho những người bị hại: Ông Tòng Văn L 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010; anh Lương Văn Tuyền 01 chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W; anh Lò Văn T 58m dây điện kích cỡ 2x6x2,5mm và 140m loại 2x4x0,2mm. Và đều không yêu bồi thường gì thêm.

Đối với yêu cầu của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Lò Văn D mua chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010 do Cà Văn Th bán cho với giá 1.200.000, đồng không biết do trộm cắp mà có. Anh Lò Văn D yêu cầu bị cáo phải bồi thường trả số tiền 1.200.000, đồng, cần chấp nhận.

Anh Lèo Văn N mua chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W do Cà Văn Th bán cho với giá 480.000, đồng không biết do trộm cắp mà có, yêu cầu bị cáo Cà Văn Th phải bồi thường trả số tiền 480.000, đồng, cần chấp nhận.

Đối với 01 chiếc xe máy loại Dream, màu sơn tím, không biển kiểm soát, không nhãn mác, số khung: MX100F-1120511, số máy: U100F1120564, xe cũ qua sử dụng. Thu giữ của Tòng Văn T, sử dụng để chở dây điện trộm cắp, được xác định là tài sản của hai vợ chồng bị cáo. Vợ bị cáo chị Lò Thị Hiêng, sinh năm 1996, địa chỉ: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La không biết việc khi bị cáo mang đi chở tài sản trộm cắp và có đơn xin lại tài sản, cần chấp nhận trả lại cho chị chiếc máy.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bao tải dứa màu cam, có kích thước 100x80cm, cũ qua sử dụng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Bị cáo Cà Văn Th phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm. Bị cáo Tòng Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g “Phạm tội 02 lần trở lên” khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Cà Văn Th phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Cà Văn Th 26 (hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2021.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Tòng Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Tòng Văn T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bị bắt tạm giam từ ngày 07/12/2021.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

3. Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các Điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự.

Về vật chứng vụ án:

Trả lại cho chị Lò Thị Hiêng 01 chiếc xe môtô loại Dream, không nhãn mác, số khung: MX100F-1120511, số máy: U100F1120564, xe không có yếm hai bên, không có hai bên gương, không có hộp xích, không biển kiểm soát, không kiểm tra máy móc bên trong, xe cũ qua sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bao tải dứa màu cam, có kích thước 100x80cm, cũ qua sử dụng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La, tỉnh Sơn La.

Về trách nhiệm bồi thường:

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho những người bị hại: Ông Tòng Văn L 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wave Alpha, màu đỏ, BKS 34M5-7010; anh Lương Văn Tuyền 01 chiếc máy bơm nước, loại bơm tõm, hiệu PUMPMAN QFD6-20, 750W; anh Lò Văn T 58m dây điện kích cỡ 2x6x2,5mm và 140m loại 2x4x0,2mm. Và những người bị hại đều không yêu bồi thường gì thêm.

Buộc Cà Văn Th phải bồi thường trả cho anh Lèo Văn N số tiền 480.000, đồng (bốn trăm tám mươi nghìn đồng).

Buộc Cà Văn Th phải bồi thường trả cho anh Lò Văn D số tiền 1.200.000, đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Cà Văn Th phải chịu án 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000, đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Tòng Văn T phải chịu án 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 23/02/2022.

Người bị hại anh Tòng Văn L, anh Lương Văn Tuyền, anh Lò Văn T. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn D, anh Lèo Văn N, chị Lò Thị Hiêng vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về