Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Lâm Ngọc Ph, tên gọi khác: Ph Q, sinh ngày 14/12/1983 tại Sóc Trăng. Đăng ký thường trú: Khóm S, Phường B, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: hoa; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lâm Vũ L và bà Trần Thị Lệ H; vợ: La Thị Yến Ph (đã ly hôn); con: 01 người sinh năm 2011; tiền án: không; tiền sự: không (về nhân thân: bị cáo từng có 03 tiền án, cụ thể: lần thứ nhất: vào ngày 20/3/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phạt 04 năm tù về tội cướp giật tài sản; lần thứ hai: vào ngày 12/3/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; lần thứ ba: vào ngày 24/4/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản, tất cả đã chấp hành xong và đã được xóa án tích; vào ngày 27/10/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản đang chấp hành án); bị cáo đang chấp hành án trong vụ án khác (có mặt).

- Bị hại: Bà Lâm Thị Thanh T, sinh năm 1958.

Địa chỉ: Khóm H, Phường B, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ, ngày 15 tháng 6 năm 2021 Lâm Ngọc Ph thuê xe ôm để chở Phú đi đến siêu thị C Sóc Trăng phường S, thành phố ST để mua đồ. Khi mua đồ xong Ph đi ra về đến khu vực sân trước cửa chính ra vào siêu thị thì Ph nảy sinh ý định tìm xe của những người dựng ở gần đó lấy trộm đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Ph quan sát xung quanh thấy chiếc xe dạng Wave (chưa rõ chủ sở hữu) đang dựng ở khu vực sân trước cửa ra vào siêu thị không có người trông giữ nên Ph đi lại lấy cây kéo vừa mua ra để cại bẽ khóa xe nhưng không được. Ph tiếp tục đi tìm xe khác ở khu vực gần đó để lấy trộm, được một lúc thì Ph nhìn thấy bà Lâm Thị Thanh T điều khiển xe mô tô biển số 83H4-9927 đi đến siêu thị C dựng ở khu vực sân trước cửa ra vào rồi đi vào bên trong siêu thị mua đồ, Ph quan sát xung quanh thấy không có người trông giữ xe nên nảy sinh ý định lấy trộm. Ph đi lại xe của bà T đang dựng lấy cây kéo vừa mua trong người ra cại bẽ khóa xe, được một lúc thì mở được khóa xe, sau đó Ph leo lên xe khởi động nổ máy điều khiển chạy tẩu thoát rồi đi đến khu vực Bến đò phường M, thành phố ST bán chiếc xe vừa lấy trộm cho một người tên H (chưa rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) với giá 1.500.000 đồng, số tiền có được thì Ph đã tiêu xài cá nhân hết. Đối với Lâm Thị Thanh T sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản nên đã đến Cơ quan Công an trình báo sự việc, tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Sóc Trăng thì Lâm Ngọc Ph đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 146/KL.ĐGTS, ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sóc Trăng kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future màu bạc đen, số khung 35067Y000828, số máy JC35E0129042, biển số 83H4-9927 đã qua sử dụng, có giá 5.400.000 đồng.

Về vật chứng, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Sóc Trăng đã tạm giữ: 01 (một) đoạn camera ghi lại hình ảnh Phú thực hiện hành vi lấy trộm chiếc xe mô tô của bị hại và đã được đánh số bút lục đưa vào hồ sơ vụ án. Đối với xe mô tô biển số 83H4-9927 do bị cáo bán cho người tên H và không biết rõ họ tên và địa chỉ nên không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại Lâm Thị Thanh T yêu cầu bị cáo Lâm Ngọc Ph bồi thường với số tiền 5.400.000 đồng, bị cáo đồng ý nhưng chưa bồi thường.

Đối với người tên Hùng có mua chiếc xe mô tô mà bị cáo Lâm Ngọc Ph đem bán, do bị cáo không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên chưa làm việc được, khi nào xác minh làm rõ sẽ xem xét xử theo quy định pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS-TPST ngày 28/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố bị cáo Lâm Ngọc Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng giữ nguyên quyết định truy tố về hành vi của bị cáo Lâm Ngọc Ph và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo Lâm Ngọc Ph phạm tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: trong quá trình điều tra và tại tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên tòa bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 5.400.000 đồng và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đề nghị áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo; về án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

- Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Tại phiên tòa, bị hại bà Lâm Thị Thanh T đã nhận bồi thường thiệt hại số tiền 5.400.000 đồng của bị cáo bồi thường nên bà T không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lâm Ngọc Ph thừa nhận: Do cần tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng nên vào khoảng 18 giờ, ngày 15 tháng 6 năm 2021 bị cáo Lâm Ngọc Ph đã lén lút lấy trộm của bà Lâm Thị Thanh T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future màu bạc đen, biển số 83H4-9927, đã qua sử dụng tại khu vực sân trước cửa chính siêu thị C. Bị cáo có sử dụng cây kéo nại ổ khóe xe, bị cáo đã nhận được kết luận định giá tài sản bị cáo không có ý kiến, nội dung cáo trạng truy tố bị cáo là đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Lời thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4] Xét thấy, bị cáo là người trưởng thành, thể hiện là người bình thường không bị mắc bệnh lý về tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi nên đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Vào ngày 15 tháng 6 năm 2021 bị cáo Lâm Ngọc Ph đã lén lút lấy trộm của bà Lâm Thị Thanh T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future màu bạc đen, biển số 83H4-9927 đã qua sử dụng tại khu vực sân trước cửa chính siêu thị C phường S, thành phố ST có giá trị qua định giá là 5.400.000 đồng. Hành vi này của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, là hành vi được pháp luật hình sự quy định là tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tội Trộm cắp tài sản.

[5] Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố để xét xử bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự nêu trên là đúng người, đúng tội danh, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu từng có 03 lần tiền án (đã được xóa) như nêu tại phần lý lịch nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; tại phiên tòa bị cáo đã bồi thường thiệt hại theo yêu cầu bị hại số tiền 5.400.000 đồng và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù với một thời gian nhất định là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và nhằm để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[9] Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử xử xử dưới mức đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[11] Bị cáo hiện đang chấp hành án phạt 02 năm tù tại Bản án số 114/2021/HS-ST ngày 27/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng và Quyết định thi hành án phạt tù số 169/2021/QĐ-CA ngày 30/11/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, căn cứ quy định tại các Điều 55, 56, 104 Bộ luật Hình sự Hội đồng xét xử tổng hợp hình phạt của bản án nêu trên để buộc bị cáo chấp hành chung với bản án này.

[12] Về xử lý vật chứng: trong quá trình điều tra không thu giữ được vật chứng nên không đặt ra xem xét.

[13] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa, bị hại Lâm Thị Thanh T yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền 5.400.000 đồng bị cáo đã bồi thường tại phiên tòa, bà T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[14] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[15] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng trình bày quan điểm luận tội, áp dụng các biện pháp tư pháp đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật. Riêng về đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận như nhận định tại mục [10].

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 55, Điều 56, Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: bị cáo Lâm Ngọc Ph, phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Xử phạt: bị cáo Lâm Ngọc Ph 1 (một) năm tù.

Tổng hợp hình phạt 2 (hai) năm tù của Bản án số 114/2021/HS-ST ngày 27/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Buộc bị cáo phải chấp hành chung cả hai bản án là 3 (ba) năm tù.

Thời hạn thi hành án phạt tù tính từ ngày 31/3/2022 nhưng được khấu trừ thời gian chấp hành từ ngày 24/7/2021 đến ngày 30/3/2022.

3. Về xử lý vật chứng: trong quá trình điều tra không thu giữ được vật chứng nên không đặt ra xem xét.

4. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa, bị hại Lâm Thị Thanh T yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền 5.400.000 đồng bị cáo đã bồi thường tại phiên tòa, bà T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5. Về án phí: Buộc bị cáo Lâm Ngọc Ph phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật để yêu cầu xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về