Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Võ Văn H, sinh năm 1995, tại Trà Vinh; nơi cư trú: Ấp Đa Hòa, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn Tr, sinh năm 1968 và bà Trần Thị O, sinh năm 1969; anh chị em ruột: Có 02 người, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1990; vợ: Chưa có; nhân thân: Không tốt.

- Tiền sự: không.

- Tiền án: 01 tiền án. Ngày 02/6/2015, Võ Văn H bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xử phạt 05 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. H chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/10/2018, chưa chấp hành xong phần án phí và nghĩa vụ dân sự.

- Bị cáo Võ Văn H bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/4/2022 đến nay, tại ấp Đa Hòa, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh, Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chùa VP;

Đại diện: Ông Trương Văn H1, Trụ trì Chùa VP (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp Đại Thôn, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 23/01/2022, Võ Văn H đi bộ từ nhà của mình tại ấp Đa Hòa, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh dọc theo Quốc lộ 53 hướng huyện Châu Thành đi huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Khi Hậu đi đến khu vực chùa VP, tọa lạc ấp Đại Thôn, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh thì thấy vắng người nên nảy sinh ý định vào chùa tìm tài sản trộm để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. H leo lên cột điện cập hàng rào chùa để đi vào bên trong. Tiếp đó, H đi xuống khu vực phía sau chùa tìm tài sản lấy trộm, khi H đi đến hành lang phía bên trái hướng từ cổng chùa đi vào thì phát hiện 01 (một) máy khoan hiệu Bosch, màu xanh đang để ở đây nên lấy cầm trên tay. Sau đó, H tiếp tục đi đến khu vực nhà kho gần đó thì phát hiện 01 (một) máy phun thuốc trừ sâu có gắn động cơ hiệu Honda nên lấy đeo trên vai, lấy được tài sản xong H tẩu thoát khỏi hiện trường bằng lối vào trước đó. H đem máy phun thuốc trừ sâu bán cho Thạch Thị Sô Ph, tại ấp Đa Hòa, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh với giá 570.000 đồng, khi bán cho Ph thì H nói máy phun thuốc trừ sâu của bạn nhờ H bán giùm. Đến khoảng 05 giờ, ngày 24/01/2022, H đem máy khoan trộm được bán cho Phạm Huỳnh Ch, nơi cư trú ấp Đa Hòa, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh với giá 200.000 đồng, khi bán cho Ch thì H nói máy khoan là của cha H. Số tiền có được từ việc bán tài sản trộm được H tiêu xài cá nhân hết. Khoảng 09 giờ, ngày 24/01/2022, Trương Văn H1 là trụ trì của chùa Vĩnh Phước cùng các tu sĩ của chùa phát hiện bị mất trộm các tài sản nói trên nên trình báo Công an xã P, huyện Châu Thành. Tại Cơ quan điều tra thì H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 14/KL-ĐGTS ngày 15/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh kết luận: 01 (một) máy khoan hiệu Bosch, màu xanh và 01 (một) máy phun thuốc trừ sâu có gắn động cơ hiệu Honda của chùa VP tại thời điểm bị chiếm đoạt, tổng trị giá 1.800.000 đồng.

Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành thu giữ và trao trả cho ông Trương Văn H1 01 (một) máy khoan hiệu Bosch, màu xanh và 01 (một) máy phun thuốc trừ sâu có gắn động cơ hiệu Honda.

Tại Cáo trạng số 34/CT-VKS-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh đã truy tố bị cáo Võ Văn H về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Võ Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận lời khai, trình bày tại cơ quan điều tra là tự nguyện, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo, không bị cơ quan điều tra ép cung, dùng nhục hình đối với bị cáo.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Võ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hậu không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Võ Văn H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản được thu hồi và giao trả cho bị hại, bị cáo có bà ngoại là người có công với nước thuộc các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 điều 173; điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Văn H từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Thời gian tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo lấy trộm đã được giao trả cho bị hại nên không xem xét.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Võ Văn H thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, không phát biểu tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay đại diện bị hại vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng bị hại.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo và tội danh: Xét lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tài sản bị cáo Võ Văn H lấy trộm dưới 2.000.000 đồng, nhưng do bị cáo có 01 tiền án, vào ngày 02/6/2015 Võ Văn H bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xử phạt 05 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo H chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/10/2018, chưa chấp hành xong phần án phí và nghĩa vụ dân sự nên hành vi của Võ Văn H cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phân tích hành vi phạm tội của bị cáo giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố bị cáo, kết luận và đề nghị tuyên bố bị cáo Võ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai đối với bị cáo.

[4] Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo Võ Văn H thể hiện tính trái pháp luật, nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý trực tiếp, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản cơ sở tôn giao được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, tạo tâm lý hoang mang lo sợ cho mọi người trong việc quản lý tài sản, không an tâm trong sinh hoạt, lao động sản xuất.

Mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, nhưng bị cáo có nhân thân không tốt, bị cáo Võ Văn H có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Bản thân bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản, bị chấp hành án, được giáo dục, cải tạo nhưng bản thân không thấy được hành vi sai trái, vi phạm pháp luật của mình để khắc phục, sửa chữa trở thành công dân tốt, vẫn tánh nào tật đó lợi dụng đêm tối, sự quản lý lỏng lẽo về tài sản của chủ sở hữu, bị cáo lén lúc lẻn vào lấy trộm tài sản với mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi đó thể hiện bị cáo là thành phần khó giáo dục, không biết sửa đổi bản thân để trở thành công dân tốt, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực, trách nhiệm hình sự, nhân thức biết được lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nên Hội đồng xét xử cần cách ly bị cáo Võ Văn H ra khỏi xã hội và cho bị cáo một mức án có thời hạn theo như quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Võ Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng có nhân thân không tốt. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiệm trọng, tài sản bị cáo lấy trộm giá trị không lớn; trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Võ Văn H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị cáo có bà ngoại là người có công với nước. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự theo đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận và áp dụng cho bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo H lấy trộm được thu hồi và giao trả cho ông Trương Văn H1, Trụ trì Chùa VP nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo Võ Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

2. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Võ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Võ Văn H 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Võ Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về