TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 34/2022/HS-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xét xử công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Tăng H (Tên gọi khác: T), sinh ngày 23 tháng 9 năm 1990, tại tỉnh Quảng Trị.
Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Khu phố TT, Phường A, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ học vấn: 8/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tăng D, sinh năm 1967 và bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1970; Gia đình có 03 người con, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Mai Thị Thu T, sinh năm 1989 (đã ly hôn); Con: có 01 con, sinh năm 2013.
Tiền án: 01 tiền án.
Ngày 27/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt Nguyễn Tăng H 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/02/2021.
Tiền sự: không. Nhân thân:
- Ngày 15/12/2006, Chủ tịch UBND Phường A, thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường trong thời hạn 06 tháng.
- Ngày 25/3/2009, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 24 tháng.
- Ngày 13/01/2010, Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt Nguyễn Tăng H 01 năm 03 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
- Ngày 21/01/2010, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xử phạt Nguyễn Tăng H 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Ngày 17/12/2014, Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt Nguyễn Tăng H 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà từ ngày 30/12/20211 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
- Công ty TNHH PA; trụ sở đóng tại: Số ** Nguyễn Viết Xuân, phường Quang Trung, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn C – Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc H (theo văn bản ủy quyền số 02/UQ-PA ngày 28/12/2021). Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Ông Lê Văn N, sinh năm: 1980; Địa chỉ: Khu phố TC, phường ĐL, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Kim L, sinh năm:
1970; Địa chỉ: Khu phố TT, Phường A, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
Người làm chứng:
- Ông Dương Văn Đ, sinh năm: 1970; Địa chỉ: Khu phố TV, phường ĐL, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.
- Ông Phan P, sinh năm 1991; Địa chỉ: Khu phố B, Phường A, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Tăng H đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích mà đã thực hiện các hành vi phạm tội, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 10/12/2021, Phan P (sinh năm 1991; trú tại: Khu phố B, Phường A, thành phố Đông Hà) gọi điện rủ H đi trộm cắp tài sản. H đồng ý và điều khiển xe mô tô hiệu Honda Ware, màu trắng đen bạc, biển kiểm soát 74C1-476.39 (xe của bà Trần Thị Kim L, trú tại Khu phố TT, Phường A, thành phố Đông Hà, là mẹ của H) chở P đi vào khu đô thị Nam Đông Hà tìm tài sản sơ hở để lấy trộm. Khi đi đến khu vực ngã ba Nguyễn Thị Định - Đặng Thí, H thấy có công trình xây dựng nhà ở do anh Lê Văn N (trú tại khu phố TC, phường ĐL, thành phố Đông Hà) làm chủ thầu, không có người trông coi nên đã dừng xe lại đứng ngoài cảnh giới còn P đi lên tầng hai ngôi nhà để lấy trộm tài sản. P đã lấy trộm được 06 thanh sắt, mỗi thanh dài 150cm, các đầu được đập dẹp, khoan lỗ tròn, sử dụng để lắp ghép giàn giáo rồi ném xuống bãi cát nơi H đang đứng. H chuẩn bị đưa số thanh sắt lên xe thì bị anh N và ông Dương Văn Đ (trú tại khu phố TV, phường ĐL, thành phố Đông Hà) phát hiện nên H đã điều khiển xe mô tô bỏ chạy.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 23/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá của 06 thanh sắt thu giữ tại thời điểm bị chiếm đoạt là 391.500 đồng.
Vụ thứ hai: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 28/12/2021, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển kiểm soát 74C1-036.86 (xe của bà Trần Thị Kim L, mẹ của H) đi dọc các tuyến đường tìm sơ hở trong quản lý tài sản để lấy trộm. Khi đi đến nhà hàng Tong Hua (số 160 Nguyễn Trãi, khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà), H nhìn qua công trình nhà ở thương mại thuộc dự án Công viên Fidel phía sau nhà hàng thì thấy có nhiều thanh sắt dạng hộp dùng để đóng cốt pha đang để ở khu vực tập kết vật liệu xây dựng của công trình, không có người trông giữ nên nảy sinh ý định lấy trộm. H dựng xe ở bãi đất trống sát nhà hàng rồi lén lút đi vào phía sau khuôn viên của công trình lấy trộm 04 thanh sắt dạng hộp, có kích thước 190x05x05cm, 240x05x05cm, 255x05x05cm và 300x05x05cm rồi mang ra xe mô tô. Khi H chuẩn bị đưa các thanh sắt vừa lấy trộm được lên xe đưa đi tiêu thụ thì bị anh H phát hiện nên bỏ chạy, để lại xe mô tô và tài sản lấy trộm được tại hiện trường.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 06/KL-HĐĐGTS ngày 12/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá của 04 thanh sắt dạng hộp thu giữ được tại thời điểm bị chiếm đoạt là 453.100 đồng.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Ware, màu trắng đen bạc, biển kiểm soát 74C1-476.39, số máy: JA39E2288520, số khung: RLHJA3925MY170367.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển kiểm soát 74C1-036.86, số máy: F27E0992984, số khung: 2704BY216166.
- 06 (sáu) thanh sắt, mỗi thanh dài 150cm, các đầu được đập dẹp, khoan lỗ tròn, sử dụng để lắp ghép giàn giáo;
- 01 (một) thanh sắt dạng hộp, có kích thước 190x05x05cm;
- 01 (một) thanh sắt dạng hộp, có kích thước 240x05x05cm;
- 01 (một) thanh sắt dạng hộp, có kích thước 255x05x05cm;
- 01 (một) thanh sắt dạng hộp, có kích thước 300x05x05cm;
Bản cáo trạng số 38/CT-VKS-ĐH ngày 24/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Nguyễn Tăng H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tăng H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Tăng H từ 12 đến 15 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tăng H và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án:
Có đủ cơ sở để kết luận: Nguyễn Tăng H đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nhưng trong hai ngày 10/12/2021 và 28/12/2021 thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Tổng giá trị tài sản mà H chiếm đoạt là 844.600 đồng. Như vậy, hành vi của Nguyễn Tăng H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Nguyễn Tăng H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[3] Xét về tính chất, hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của Nguyễn Tăng H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, làm mất ổn định an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình nhưng cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mới có tác dụng giáo dục, răn đe trong việc phòng, chống tội phạm.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Tăng H đã hai lần thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; tài sản bị chiếm đoạt đã kịp thời thu giữ trả lại cho bị hại nên thiệt hại gây ra chưa lớn do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[6] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nhưng bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 52, bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị Tòa án đưa ra xét xử nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội.
[7] Đối với Phan P là người cùng với H thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” vào ngày 10/12/2021 nhưng giá trị tài sản mà P chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, P chưa bị kết án hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản nên không cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phan P là có căn cứ.
[8] Đối với bà Trần Thị Kim L là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô hiệu Honda Ware, màu trắng đen bạc, biển kiểm soát 74C1-476.39, số máy: JA39E2288520, số khung: RLHJA3925MY170367 và xe mô tô hiệu Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển kiểm soát 74C1-036.86, số máy: F27E0992984, số khung: 2704BY216166 nhưng việc Nguyễn Tăng H sử dụng hai chiếc xe trên vào mục đích phạm tội bà L không biết nên Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự là có cơ sở.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH PA, ông Lê Văn N và bà Trần Thị Kim L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[10] Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Tăng H thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.
[11] Về vật chứng: Ngày 24/02/2022, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 20/QĐ cho các chủ sở hữu hợp pháp, cụ thể:
- Trả lại 06 (sáu) thanh sắt, mỗi thanh dài 150cm, các đầu được đập dẹp, khoan lỗ tròn, sử dụng để lắp ghép giàn giáo cho chủ sở hữu hợp pháp ông Lê Văn N.
- Trả lại 01 (một) thanh sắt dạng hộp, có kích thước 190x05x05cm; 01 (một) thanh sắt dạng hộp, có kích thước 240x05x05cm; 01 (một) thanh sắt dạng hộp, có kích thước 255x05x05cm; 01 (một) thanh sắt dạng hộp, có kích thước 300x05x05cm cho đại diện hợp pháp của Công ty TNHH PA.
- Trả lại xe mô tô hiệu Honda Ware, màu trắng đen bạc, biển kiểm soát 74C1-476.39, số máy: JA39E2288520, số khung: RLHJA3925MY170367 và xe mô tô hiệu Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển kiểm soát 74C1-036.86, số máy: F27E0992984, số khung: 2704BY216166 cho chủ sở hữu hợp pháp bà Trần Thị Kim L.
[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tăng H (Tên gọi khác: T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tăng H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam, ngày 30 tháng 12 năm 2021.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Tăng H phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2022/HS-ST
Số hiệu: | 34/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về