TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2021/HSST ngày 17/5/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXX - HS ngày 09/6/2021 đối với bị cáo:
Vũ Văn L; sinh năm 1994; tại xã H, huyện H, tỉnh T; trú tại: thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn L, con bà Nguyễn Thị N; bị cáo chưa có vợ.
Tiền sự: Không .
Tiền án: Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 08/2016/HS-ST ngày 26/01/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo chưa chấp hành phần bồi thường dân sự.
Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 47/2017/HS-ST ngày 22/8/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo chưa chấp hành phần bồi thường dân sự.
Nhân thân: Ngày 02/8/2015 bị cáo bị Công an xã Hà Bình ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo chưa chấp hành quyết định này, nhưng đã hết thời hiệu thi hành quyết định để được coi là chưa bị xử lý hành chính.
Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị bắt để tạm giam từ ngày 22/01/2021 cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên toà.
Bị hại:
- Anh Phạm Thế H; sinh năm: 1988; nơi cư trú: tiểu khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.
- Bà Hồ Thị N; sinh năm: 1954; nơi cư trú: tiểu khu 6, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.
- Ông Trần Văn N; sinh năm: 1956; nơi cư trú: tiểu khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.
- Chị Đỗ Thị Hải H; sinh năm: 1983; nơi cư trú: tiểu khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.
- Bà Mai Thị M; sinh năm: 1962; nơi cư trú: tiểu khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.
- Bà Lê Thị L; sinh năm: 1953; nơi cư trú: tiểu khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Đỗ Thị L; sinh năm: 1962; nơi cư trú: tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ ngày 13/12/2020 đến ngày 24/12/2020, Vũ Văn L đã thực hiện các hành vi, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng 03 giờ ngày 13/12/2020, Lực đi bộ từ nhà đến khu vực tiểu khu 5, thị trấn H với mục đích trộm cắp tài sản. Lực phát hiện nhà anh Phạm Thế H, sinh năm 1988 trú tại tiểu khu 5, thị trấn H cửa cổng khóa, mọi người đã ngủ nên L trèo tường vào bên trong đi đến khu vực chuồng gà nhà anh H bắt trộm 05 con gà (01 con trống, 04 con mái), tổng trọng lượng 12 kg bỏ vào bì xác rắn mang theo. Sau đó L theo đường cũ trèo ra ngoài rồi mang số gà trên vào khu vực chợ L bán cho một người phụ nữ không rõ tên, tuổi, địa chỉ với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).
Lần thứ hai: Khoảng 03 giờ ngày 18/12/2020, L đi bộ từ nhà đến khu dân cư thuộc tiểu khu 6, thị trấn H với mục đích để trộm cắp tài sản. Khi đến cổng nhà bà Hồ Thị N, sinh năm 1954, trú tại tiểu khu 6, thị trấn H, thấy cửa cổng khóa và bên trong tắt điện nên L đã trèo tường vào sân nhà bà N xem có tài sản gì không để trộm cắp. Phát hiện thấy ở góc sân bên phải theo hướng từ ngoài vào trong có 01 chiếc xe đạp mini nhật, màu xanh da trời, L lại gần dắt chiếc xe đạp rồi nâng qua tường rào ra ngoài. Sau đó, L đạp xe vào khu vực chợ L tìm người để bán chiếc xe đạp trên. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, L gặp bà Đỗ Thị L, sinh năm 1962, trú tại tiểu khu 3, thị trấn H và bán cho bà L chiếc xe đạp trên với giá 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Lần thứ ba: Khoảng 03 giờ ngày 20/12/2020, L đi bộ từ nhà đến khu vực tiểu khu 5, thị trấn H xem nhà nào sở hở thì đột nhập trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà ông Trần Văn N, sinh năm 1956, trú tại tiểu khu 5, thị trấn H thấy nhà đã tắt đèn, cửa khóa nên L trèo tường vào bên trong khu vực chuồng gà nhà ông N bắt trộm 11 con gà (06 con trống, 05 con mái), tổng trọng lượng 30kg bỏ vào bì xác rắn mang theo. Sau đó, L mang số gà trên tới khu vực chợ L bán cho một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ với số tiền 800.000đ (tám trăm nghìn đồng).
Lần thứ tư: Khoảng 03 giờ ngày 24/12/2020, Vũ Văn L đi bộ từ nhà vào khu vực dân sinh tiểu khu 5, thị trấn H với mục đích tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi đi bộ đến nhà chị Đỗ Thị Hải H, sinh năm 1983, trú tại tiểu khu 5, thị trấn H, thấy cửa cổng đóng nên L trèo qua tường rào đi vào trong sân vườn, phát hiện ở gốc cây nhãn nhà chị H dựng 01 chiếc xe đạp mini, màu xanh lá cây, L dắt chiếc xe đạp ra gần bờ tường rồi nâng ra ngoài, vừa đạp xe vừa tiếp tục quan sát nhà khác để trộm cắp tài sản. Khi tới nhà bà Mai Thị M, sinh năm 1962, trú tại tiểu khu 5, thị trấn H, L dựng xe ngoài đường, trèo qua tường vào nhà đi tới khu vực chuồng gà nhà bà M bắt trộm 06 con gà (02 con trống, 04 con mái), tổng trọng lượng 13,4kg, bỏ vào bì xác rắn đã chuẩn bị sẵn rồi xách bì gà theo đường cũ trèo ra ngoài. Sau khi trộm cắp gà nhà bà M, L tiếp tục trèo qua tường rào vào nhà bà Lê Thị L, sinh năm 1953 (hàng xóm nhà bà M) đi đến khu vực chuồng gà phía sau nhà bà L bắt 09 con gà (05 con trống, 04 con mái), tổng trọng lượng 23kg rồi bỏ vào bì xác rắn cùng với số gà vừa trộm cắp của nhà bà M. Sau đó, L trèo tường ra ngoài, để bì gà lên giỏ chiếc xe đạp vừa trộm cắp rồi đạp xe tới khu vực chợ L bán hết số gà trên cho một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ với số tiền 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng).
Toàn bộ số tiền bán gà và xe đạp trên, L sử dụng vào việc mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân hết. Chiếc xe đạp trộm cắp nhà chị H, L đem về nhà sửa chữa dùng làm phương tiện đi lại.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 04/HĐĐG ngày 22/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 xe đạp mini đã cũ, khung xe màu xanh da trời đã bị hoen rỉ, có giá trị là 500.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 20/HĐĐG ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 xe đạp mini khung xe màu xanh lá cây, rọ xe màu đen (đã qua sử dụng), có giá trị là 200.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 21/HĐĐG ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 05 con gà tổng trọng lượng là 12kg, tại thời điểm bị mất trộm có giá trị thành tiền là 720.000 đồng, tương ứng 60.000 đồng/kg.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 22/HĐĐG ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 09 con gà tổng trọng lượng là 23kg, tại thời điểm bị mất trộm có giá trị thành tiền là 1.610.000 đồng, tương ứng 70.000 đồng/kg.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/HĐĐG ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 06 con gà tổng trọng lượng là 13,4kg, tại thời điểm bị mất trộm có giá trị thành tiền là 804.000 đồng, tương ứng 60.000 đồng/kg.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 24/HĐĐG ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 11 con gà tổng trọng lượng là 30kg, tại thời điểm bị mất trộm có giá trị thành tiền là 1.800.000 đồng, tương ứng 60.000 đồng/kg.
Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 17/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng dụng điểm g, khoản 2, Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 36 đến 39 tháng tù .
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại, phù hợp với vật chứng thu giữ được, đủ cơ sở khẳng định: Vũ Văn L đã bốn lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể: ngày 24/12/2020, trộm cắp tài sản của nhà chị Đỗ Thị Hải H, bà Mai Thị M, bà Lê Thị L với tổng giá trị tài sản trộm cắp theo định giá là 2.614.000 đồng; ngày 13/12/2020 trộm cắp của gia đình anh Phạm Thế H với giá trị tài sản theo định giá là 720.000 đồng; ngày 18/12/2020 trộm cắp của gia đình bà Hồ Thị N với giá trị tài sản theo định giá là 500.000 đồng; ngày 20/12/2020 trộm cắp của gia đình ông Trần Văn N với giá trị tài sản theo định giá là 1.800.000 đồng. Trong bốn lần bị cáo trộm cắp tài sản, có 3 lần số tiền trộm cắp dưới 2.000.000 đồng và một lần trộm cắp trên 2.000.000 đồng. Mặt khác, bị cáo là đối tượng có hai tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 08/2016/HS-ST ngày 26/01/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tại bản án Hình sự sơ thẩm số 47/2017/HS-ST ngày 22/8/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Cả hai bản án đều chưa được xóa án tích do bị cáo mới chấp hành hình phạt tù, chưa chấp hành phần bồi thường dân sự cho bị hại, nên cả bốn lần bị cáo trộm cắp đều phạm tội “trộm cắp tài sản”. Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 47/2017/HS- ST ngày 22/8/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất trật tự trị an trên địa bàn huyện. Bị cáo là đối tượng đã hai lần bị kết án và một lần bị xử phạt hành chính: ngày 02/8/2015, bị cáo bị Công an xã Hà Bình ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo chưa chấp hành quyết định này, nhưng đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính để được coi là chưa bị xử lý hành chính. Tuy nhiên, điều đó cho thấy bị cáo có nhân thân rất xấu và bản chất khó cải tạo. Mặt khác, bị cáo 4 lần trộm cắp tài sản là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, phải cách ly khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe phòng ngừa chung.
Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Cần áp dụng tình tiết này để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
Đối với những người mua gà của Vũ Văn L, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án.
[3]. Về bồi thường thiệt hại: Bà Lê Thị L yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 1.610.000 đồng, anh Phạm Thế H yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 720.000 đồng, bà Đỗ Thị L yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 250.000 đồng. Yêu cầu của bà L, anh H là có căn cứ và đúng quy định nên được chấp nhận. Bà Đỗ Thị L không biết chiếc xe đạp là tài sản trộm cắp mà có nên đã mua của bị cáo với giá 250.000 đồng, chiếc xe đã thu hồi trả lại cho bị hại, nay bà L yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền này, bị cáo phải có nghĩa vụ trả cho bà L. Ông Trần Văn N, bà Hồ Thị N, bà Mai Thị M, chị Đỗ Thị Hải H vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt ông N, bà M, bà N và chị H, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên miễn xét [4]. Về vật chứng: Chiếc xe đạp mini khung xe màu xanh da trời là tài sản hợp pháp của bà Hồ Thị N; Chiếc xe đạp mini khung xe màu xanh lá cây là tài sản hợp pháp của chị Đỗ Thị Hải H nên cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hà Trung đã trả lại cho bà N và chị H là đúng quy định. Đối với số gà bị cáo trộm cắp, quá trình điều tra không thu hồi lại được.
[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm g, khoản 2, Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự.
1. Về tội danh: Bị cáo Vũ Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Văn L 39 (Ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt để tạm giam là ngày 22/01/2021.
3. Về bồi thường: Căn cứ Điều 584, 585, 589, khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.
Buộc bị cáo Vũ Văn lực phải bồi thường cho bà Lê Thị L số tiền 1.610.000đ (Một triệu sáu trăm mười nghìn đồng); bồi thường cho anh Phạm Thế H số tiền 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi nghìn đồng); bồi thường cho bà Đỗ Thị L 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và bà Lê Thị L, anh Phạm Thế H, bà Đỗ Thị L có yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án, bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền và thời gian chưa thi hành án. Khoản tiền lãi chậm thi hành án được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Vũ Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HS-ST
Số hiệu: | 34/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về