Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AK - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã AK, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2021/TLST-HS ngày 14/10/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2021/QĐXXST-HS ngày 04/11/2021 đối với bị cáo: TN, tên gọi khác: Tý Nam; sinh ngày 02/8/1991 tại AK, Gia Lai; nơi cư trú: Thôn Tân B, xã Tân An, huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai; ngh nghiệp: Không; T độ văn h a: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn P và bà Trịnh Thị C; vợ là Trần Thị Mai T; bị cáo có một người con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không: về nhân thân: Ngày 18/4/2008 bị Tòa án nhân dân thị xã AK xử phạt 6 tháng cải tạo không giam giữ về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có . Ngày 25/5/2009 bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản, ngày 29/7/2009, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 07/8/2009 bị Công an huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, đã chấp hành xong. Ngày 28/5/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xử phạt 42 tháng tù về tội gây rối trật tự công cộng. Ngày 01/7/2010 bị Tòa án nhân dân thị xã AK xử phạt 33 tháng tù về tội gây rối trật tự công cộng, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba bản án là 08 năm 03 tháng tù. Ngày 05/10/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt. Ngày 31/10/2018 bị Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Gia Lai xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong; bị tạm giam từ ngày 17/6/2021 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: D, sinh năm 2000; trú tại: Tổ 8, phường An Phú, thị xã AK, tỉnh Gia Lai; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Võ Đình Tr, sinh năm 1993; trú tại: Tổ 5, phường Tây Sơn, thị xã AK, tỉnh Gia Lai; vắng mặt.

- Người làm chứng: Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị Q, Vũ Đức N, Lê Anh K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được t m tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 16/5/2021, TN Điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Jupiter biển số 81G1 -057.98, trên xe mang theo một cục gỗ đến nhà anh D ở Tổ 8, phường An P, thị xã AK để thuê anh D đục thành bức tượng cho Nam. Khi Nam đến nhà anh D, thấy cổng ngõ bị khóa nhưng cửa nhà mở, Nam đứng bên ngoài quan sát thấy phòng khách không có ai, trên bàn trong phòng khách có một bức tượng nên nảy sinh ý định chiếm đoạt bức tượng. Nghĩ vậy, Nam trèo qua cổng, đi vào phòng khách nhà anh D lén lút bê bức tượng làm bằng gỗ hương, hình ông phật di lặc có kích thước (50x27x35)cm đi ra cổng, Nam đặt tượng trên bức tường bên phải rồi trèo qua cổng, sau đề bê bức tượng để lên xe và chở đến nhà anh Võ Đình T ở Tổ 5, phường Tây Sơn, thị xã AK. Nam n i với anh T tượng của mình do thợ đục xấu, Nam cần tiền nên mang đi bán rồi thống nhất bán cho anh T với giá 1.500.000 đồng. Sau khi phát hiện bị mất bức tượng, ngày 24/5/2021 anh Vũ Văn D làm đơn T báo với Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã AK.

Quá trình Điều tra, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã AK đã thu giữ:

01 bức tượng gỗ có ông phật di lặc ngồi giữa, 03 trẻ em ngồi xung quanh, chất liệu bằng gỗ hương, có kích thước cao 27cm, chi u sâu 35cm, ngang 50cm, nặng 11,5kg. Ngày 14/6/2021 Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã AK đã trả lại bức tượng n i trên cho anh Vũ Văn D.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Jupiter biển số 81G1 -057.98 là của anh Nguyễn Văn Lợi cho Nam mượn. Anh Lợi không biết việc Nam sử dụng xe mô tô n i trên để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra không tiến hành thu giữ.

Đối với số tiền 1.500.000 đồng có được từ việc bán bức tượng TN đã tiêu xài cá nhân nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra không thu giữ được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 28/KLĐGTS, ngày 03/06/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã AK, kết luận: Giá trị bức tượng gỗ hương, hình phật di lặc có kích thước (50x27x35)cm tại thời điểm ngày 16/5/2021 là 5.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 36/CT-VKS ngày 12/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã AK đã truy tố bị cáo TN về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã AK giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo TN phạm tội Trộm cắp tài sản ; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Do bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đề u không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét về phần dân sự. đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa anh Vũ Văn D khai vào ngày 16/5/2021 anh đã bị mất bức tượng làm bằng gỗ hương, hình ông phật di lặc có kích thước (50x27x35)cm. Ngày 24/5/2021 anh đã làm đơn T báo với Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã AK.

Quá T Điều tra xác định bị cáo TN là người trộm cắp tài sản, Cơ quan Điều tra đã thu hồi bức tượng và trả lại cho anh. Vì vậy, anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời khai của Võ Đình T có tại hồ sơ vụ án thể hiện: Vào ngày 16/5/2021 anh có mua bức tượng bằng gỗ hương hình ông phật di lặc do TN bán với giá 1.500.000đ. Khi mua do Nam n i bức tượng là của mình nên anh không biết đây là tài sản do TN trộm cắp mà có . Anh T không yêu cầu TN phải trả lại số tiền 1.500.000đ mà anh đã trả cho Nam khi mua bức tượng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã AK, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã AK, Kiểm sát viên trong quá T Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, T tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đề , hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án do đề đã có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 16/5/2021 tại nhà anh Vũ Văn D ở Tổ 8, phường An Phú, thị xã AK, tỉnh Gia Lai, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, bị cáo TN đã lén lút chiếm đoạt 01 bức tượng hình ông phật di lặc ngồi giữa, 03 trẻ em ngồi xung quanh, chất liệu bằng gỗ hương, có kích thước cao 27cm, chi u sâu 35cm, ngang 50cm, nặng 11,5kg trị giá 5.000.000 đồng. Vì vậy, đã đủ cơ sở tuyên bố bị cáo TN phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá T Điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhi u lần bị kết án và nhi u lần bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng bị cáo không lấy đề làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đặc điểm về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới có đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] về dân sự: Anh Vũ Văn D đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, anh Võ Đình T cũng không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 1.500.000đ nên Hội đồng xét xử không xét về phần dân sự.

[7] về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã AK đã xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[8] về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 260; khoản 1 Điều 268; khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố bị cáo TN phạm tội Trộm cắp tài sản ;

Xử phạt bị cáo TN 09 (chín) tháng tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam (ngày 17 tháng 6 năm 2021).

2. về án phí: Buộc bị cáo TN phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (26/11/2021), bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử theo T tự phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã An Khê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về