TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 33/2023/HS-ST NGÀY 11/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 01 năm 2023, tại Hội trường B - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 43/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Phi H, sinh năm 2002, tại Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã L, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn S (1966) và bà Đặng Thị Thanh T (1978); bị cáo là con thứ hai trong gia đình có hai anh em và chưa có vợ con; tiền án: Ngày 15/4/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 (Mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 63/2021/HS-ST, đã chấp hành xong ngày 26/11/2021 (chưa nộp khoản án phí); tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/12/2022 đến ngày 14/12/2022 bị tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thống Nhất. (Có mặt)
- Bị hại: Anh Huỳnh Thanh Th sinh năm 2002 Nơi cư trú: Số C, ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có tiền tiêu xài nên sáng ngày 10/12/2022, Trần Phi H (đã có một tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích) đi bộ lang thang xung quanh khu vực ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai để tìm kiếm tài sản sơ hở của người dân để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài.
Khoảng 03 giờ sáng ngày 10/12/2022, khi đi ngang qua nhà anh Huỳnh Thanh Th thì H thấy chiếc xe mô tô biển số 60AE-X đang để bên hông phía bên trái nhà của anh Th, không có người trông coi nên H đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe trên. H đi bộ lại gần chiếc xe thì phát hiện chìa khóa đang cắm trên xe nên H đã ngồi lên xe mô tô đề máy và điều khiển xe mô tô trộm cắp được đến một vườn điều lớn ở khu vực thuộc Ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai nằm ngủ. Sáng ngày 10/12/2022, anh Th phát hiện bị mất xe nên đã đến cơ quan Công an trình báo.
Đến khoảng 14 giờ ngày 11/12/2022, biết hành vi trộm cắp tài sản của mình vi phạm pháp luật nên Trần Phi H đã đến cơ quan Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ sự việc.
Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 1636/KL-HĐĐGTS ngày 22/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thống Nhất xác định: Một xe mô tô biển kiểm soát 60AE-X, hiệu FUSIN, màu đen bạc, số khung P39FMB861096, số máy B1RRBD861096, đã qua sử dụng, đăng ký lần đầu từ năm 2011 trị giá 4.700.000đ (Bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).
Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 06/QĐTT-VKS-TN ngày 28 tháng 12 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố Trần Phi H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo H từ 18 (Mười tám) đến 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xem xét quyết định án phí hình sự sơ thẩm.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Phi H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Quyết định truy tố mô tả và không tham gia tranh luận.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Ơ Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Bị hại - anh Huỳnh Thanh Th mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt). Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa, Trần Phi H khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung Quyết định truy tố đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú/đầu thú, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 03 giờ ngày 10/12/2022, tại khu vực ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Trần Phi H đã có hành vi lén lút lấy trộm của anh Huỳnh Thanh Th một xe mô tô biển số 60AE-X trị giá 4.700.000đ (Bốn triệu bảy trăm nghìn đồng). Như vậy, hành vi của Trần Phi H thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự: “... trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ...”. Do đó, Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 06/QĐTT-VKS-TN ngày 28 tháng 12 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố Trần Phi H về tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là đúng người, đúng tội và không oan sai cho bị cáo.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Lẽ ra, là thanh niên bị cáo phải nỗ lực phấn đấu, tu dưỡng bản thân, lao động để tạo ra của cải vật chất, giúp đỡ gia đình và xã hội nhưng bị cáo lại đi vào con đường phạm tội. Do đó, cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi mà bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Bản thân bị cáo đã có một tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú và bản thân bị cáo có học vấn thấp nên nhận thức pháp luật bị hạn chế; do đó xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Ơ Điều 51 Bộ luật Hình sự, là căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
[5] Về quyết định hình phạt: Căn cứ tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Xét thấy, cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để bị cáo suy nghĩ về hành vi phạm tội của mình, tự giác cải tạo, học tập, lao động trở thành công dân sống lương thiện, có ích cho xã hội và biết tuân thủ pháp luật.
[6] Về vật chứng vụ án: Một xe mô tô biển kiểm soát 60AE-X, hiệu FUSIN, màu đen bạc, số khung P39FMB861096, số máy B1RRBD861096 là tài sản của bị hại nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trả cho bị hại (theo Quyết định xử lý vật chứng số 04/QĐ-ĐTTH và Biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu cùng ngày 27/12/2022) là phù hợp.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại - anh Huỳnh Thanh Th đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[8] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận. Tuy nhiên, về hình phạt như đã nhận định ở trên việc xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là có căn cứ, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;
- Khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 457 và Điều 463 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Trần Phi H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Phi H 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/12/2022.
2. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Phi H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2023/HS-ST
Số hiệu: | 33/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về