Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 529/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXXST–HS ngày 06 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng P T, sinh ngày: 08/3/1994 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: 187/3 Tam Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thành C và bà Lê Thị P; chưa có vợ con; tiền án: không có; tiền sự: không có; nhân thân: - Quyết định số 44/QĐ-XPVPHC ngày 07/8/2019 của Ủy ban nhân dân phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, bị xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị bắt, tạm giam ngày: 20/10/2021 (vắng mặt).

- Bị hại:

Bà Nguyễn Thị Minh N, sinh năm: 1941.

Địa chỉ: 1250 Đ, khu phố 4, phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Phan Minh C, sinh năm: 1941.

Địa chỉ: 110/1 P, phường Thanh Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1]. Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Hoàng P T rủ S (không rõ lai lịch) và Nguyễn Nhật M đi trộm cắp tài sản thì S, M đồng ý. Khoảng 01 giờ ngày 25/01/2021, T, S bắt xe taxi biển số 60A–xxxxx tại ngã tư Hóa An, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do ông Phan Minh C làm tài xế. T và S yêu cầu ông C đến tiệm bắn cá thuộc phường Hóa An, thành phố Biên Hòa thì dừng xe để đón Nguyễn Nhật M rồi đi thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi đi đến trước nhà bà Nguyễn Thị Minh N tại số 1250 Đ, khu phố 4, phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. S ngồi trên xe cầm vật (không rõ đặc điểm) kề vào hông bên phải ông C yêu cầu ông C ngồi im và giữ im lặng, còn M và T xuống xe. T đứng ngoài cổng cảnh giới, M leo hàng rào vào sân nhà bà Ng lấy trộm 01 chậu cây và 02 đôn chậu cây rồi chuyền qua hàng rào cho T, sau đó M leo rao ngoài. Khi T và M đem tài sản vừa lấy trộm được vào xe ô tô chuẩn bị tẩu thoát thì bị lực lượng C an tuần tra phát hiện giữ M và ông C, còn Sang và T bỏ chạy thoát.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Hoàng P T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Kết luận định giá tài sản số 13-KV3/KLĐG-HĐĐGTS ngày 12/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Đức kết luận: 01 chậu cây bằng gốm sứ đường kính 50cm, cao 30cm có giá là 1.000.000 đồng; 02 đôn chậu cây bằng gốm sứ đã qua sử dụng, đường kính 30cm, chiều cao 50cm có giá là 1.600.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 2.600.000 đồng.

Ngày 25/3/2021, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Nhật M về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 25/6/2021 thì ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt đối với Nguyễn Hoàng P T. Tuy nhiên, T bỏ trốn nên Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã. Ngày 20/10/2021, T bị bắt theo quyết định truy nã.

Ngày 09/11/2021, Nguyễn Nhật M bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức xét xử 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết tại Bản án số 432/2021/HS-ST ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức.

Tại Bản Cáo trạng số 19/CT-VKSTPTĐ ngày 27/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng P T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng P T có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử do đó, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức phát biểu: Bị cáo Nguyễn Hoàng P T có đơn xin xét xử vắng mặt, xét thấy việc vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử, do đó đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo. Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng P T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 01 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Hoàng P T phù hợp với lời khai của bị cáo Nguyễn Nhật M (đã bị xét xử), phù hợp với lời khai của bị hại và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ khác như bản thu giữ vật chứng, biên bản nhận dạng, bản kết luận định giá và các biên bản hoạt động điều tra khác… Từ đó có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 01 giờ ngày 25/01/2021, bị cáo Nguyễn Hoàng P T rủ S (không rõ lai lịch) và Nguyễn Nhật M đi trộm cắp tài sản. Cả ba đón taxi biển số 60A-xxxxx của ông Phan Minh C để đi, khi đến trước nhà bà Nguyễn Thị Minh N, số 1250 Đ, khu phố 4, phường L, thành phố Thủ Đức thì Sang cầm một vật (không rõ đặc điểm) khống chế ông C, yêu cầu giữ im lặng. Bị cáo T đứng ngoài cảnh giới, M leo hàng rào vào sân nhà bà N lấy 01 chậu cây, 02 đôn chậu cây bằng gốm rồi chuyền qua hàng rào cho bị cáo T và tẩu thoát ra ngoài. Khi bị cáo T và M đem tài sản vào xe ô tô thì bị C an tuần tra phát hiện, M bị bắt giữ, bị cáo T và S bỏ chạy, đến ngày 20/10/2021 thì bị cáo bị bắt giữ, đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, xét có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Hoàng P T phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo Điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Theo kết luận định giá tài sản thì 01 chậu cây bằng gốm sứ có giá là 1.000.000 đồng; 02 đôn chậu cây bằng gốm sứ đã qua sử dụng, có giá là 1.600.000 đồng; tổng giá trị tài sản là 2.600.000 đồng do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo giữ vai trò rủ rê Nguyễn Nhật M và S đi trộm cắp tài sản. Khi S ngồi trên xe khống chế ông C thì bị cáo cảnh giới cho M thực hiện lấy tài sản. Về nhân thân bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; sau khi bị phát hiện hành vi, bị cáo bỏ trốn và bị truy nã. Ngoài ra, tài sản cũng đã thu hồi trả lại cho bị hại. Từ những nhận định như trên, Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo để áp dụng mức hình phạt tương xứng, phù hợp nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Đối với ông Phan Minh C lúc đầu không biết sự việc M, T và S đi trộm cắp tài sản nên ông C đồng ý chở, sau khi biết cả 03 đi trộm cắp tài sản thì bị S khống chế. Do đó, không có căn cứ để xử lý ông C.

Đối với tên S, đến nay chưa xác định được lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[3]. Về vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Đã được giải quyết tại Bản án số 432/2021/HS-ST ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng P T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng P T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/10/2021.

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cần thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2022/HS-ST

Số hiệu:33/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về