Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 33/2021/HS-ST NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 16/2021/TLST, ngày 04 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXX ngày 19 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn A, sinh 1994.Tên gọi khác: Không. HKTT: N, N, TP Đi, Điện Biên. Nghề nghiệp: Tự do. Văn hóa: 05/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Bố: Lò Văn V, sinh: 1966. Mẹ: Lò Thị B, sinh: 1967. Bị cáo là con thứ hai trong gia đình có 02 chị em. Bị cáo chung sống với Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Năm 2012, Tòa án nhân dân huyện Đ, Điện Biên xử phạt Lò Văn A 24 tháng tù về tội Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy. (Đã xóa án tích).

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ 13/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam số II – Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

Anh Trần Văn H, sinh 1996, trú tại: xóm 1, Q, G, Hưng Yên. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09h30 ngày 13/12/2020, tại nhà số 41 đường C, tổ dân phố D, thị trấn Q, K, Hà Nội, tổ công tác công an thị trấn Q, K, Hà Nội bắt quả tang đối tượng Lò Văn A có hành vi trộm cắp tài sản là 05 chiếc điện thoại di động đang cất giấu tại túi quần bên trái chiếc quần của A đang mặc. Tổ công tác đưa A cùng tang vật về cơ quan công an để làm rõ. Vật chứng thu giữ của Lò Văn A gồm:

01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO F5 màu hồng đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A3S màu tím than đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A5S màu xanh đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu REALME màu xanh đã qua sử dụng;

01 ĐTDĐ nhãn hiệu MI màu xanh đã qua sử dụng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia N1110,V640 màu đen trắng, lắp sim liên lạc, đã qua sử dụng. (BL 89, 91).

Kết luận định giá tài sản số 231 ngày 21/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện K kết luận: 01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO F5 màu hồng đã qua sử dụng có giá trị 1.000.000 đồng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A3S màu tím than đã qua sử dụng có giá trị 1.000.000 đồng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A5S màu xanh đã qua sử dụng có giá trị 1.500.000 đồng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu REALME màu xanh đã qua sử dụng có giá trị 2.000.000 đồng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu MI màu xanh đã qua sử dụng có giá trị 1.000.000 đồng.

Theo Lò Văn A khai nhận: Khoảng 08h25 ngày 13/12/2020, A đi từ nhà trọ tại đường C, tổ dân phố D, Q, K, Hà Nội đến cửa hàng điện thoại số 41, đường C, tổ dân phố D, Q, K, Hà Nội của anh Trần Văn H, sinh 1996, trú tại: xóm 1, Q, G, Hưng Yên, thì thấy cửa hàng chỉ khép không khóa cửa, trong cửa hàng không có người trông giữ nên A đã nảy sinh ý định trộm cắp. A đi vào trong cửa hàng và quan sát thấy tủ kính trưng bày điện thoại có khoảng 07 chiếc điện thoại di động. A đã dùng tay cậy cửa kính của tủ làm cửa bị vỡ sau đó luồn tay qua chỗ vỡ lấy được 05 chiếc điện thoại di động. Lúc này, A nghe thấy có tiếng người phụ nữ ở bên trong nhà hô hoán “Trộm, trộm” nên đã cất 05 chiếc điện thoại vừa lấy được vào túi quần bên trái chiếc quần A đang mặc và bỏ chạy khỏi quán. Khi A chạy đến một ngõ cụt tại đường D C, cách cửa hàng điện thoại khoảng 100m thì bị người dân cùng cơ quan công an bắt quả tang.

Đối với 05 chiếc điện thoại di động mà Lò Văn A đã trộm cắp, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện K ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ tài sản là anh Trần Văn H. Anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường dân sự khác.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia N1110, V640 màu đen trắng, lắp sim liên lạc, đã qua sử dụng thu được của bị can A, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện K xác định đây là tài sản của A có từ trước, không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 20/CT-VKS-GL ngày 02/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Lò Văn A về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo A khai nhận: Khoảng 08h25 ngày 13/12/2020, A đi từ nhà trọ tại đường C, tổ dân phố D, Q, K, Hà Nội đến cửa hàng điện thoại số 41, đường C, tổ dân phố D, Q, K, Hà Nội của anh Trần Văn H, sinh 1996, trú tại: xóm 1, Q, G, Hưng Yên, thì thấy cửa hàng chỉ khép không khóa cửa, trong cửa hàng không có người trông giữ nên A đã nảy sinh ý định trộm cắp. A đi vào trong cửa hàng và quan sát thấy tủ kính trưng bày điện thoại có khoảng 07 chiếc điện thoại di động. A đã dùng tay cậy cửa kính của tủ làm cửa bị vỡ sau đó luồn tay qua chỗ vỡ lấy được 05 chiếc điện thoại di động. Lúc này, A nghe thấy có tiếng người phụ nữ ở bên trong nhà hô hoán “Trộm, trộm” nên đã cất 05 chiếc điện thoại vừa lấy được vào túi quần bên trái chiếc quần A đang mặc và bỏ chạy khỏi quán. Khi A chạy đến một ngõ cụt tại đường D C, cách cửa hàng điện thoại khoảng 100m thì bị người dân cùng cơ quan công an bắt quả tang.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Lò Văn A từ 15-18 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày 13/12/2020. Vật chứng: Trả lại bị cáo điện thoại nhãn hiệu Nokia N1110, V640 màu đen trắng, lắp sim liên lạc, đã qua sử dụng, không liên quan đến phạm tội.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Dân sự: Không.

Lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện K, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng; Kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Khoảng 08h25 ngày 13/12/2020, tại cửa hàng điện thoại số 41, đường C, tổ dân phố D, Q, K, Hà Nội của anh Trần Văn H, sinh 1996, trú tại: xóm 1, Q, G, Hưng Yên, lợi dụng sự sơ hở của anh H, bị cáo đã dùng tay cậy cửa kính của tủ làm cửa bị vỡ sau đó luồn tay qua chỗ vỡ lấy được 05 chiếc điện thoại di động. Giá trị tài sản được định giá 6.500.000đồng, bị cáo nhất trí. Vì vậy, có căn cứ xác định Lò Văn A đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Đáng chú ý, nhân thân bị cáo đã có tiền án, tuy đã được xóa nhưng phải thấy bị cáo đã bị cơ quan pháp luật xử lý và giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân do vậy xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là thỏa đáng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc, nhận thức còn hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Vật chứng: do 01 ĐTDĐ nhãn hiệu MI màu xanh đã qua sử dụng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia N1110,V640 màu đen trắng, lắp sim liên lạc, đã qua sử dụng, bị cáo không dùng vào việc phạm tội vì nên trả lại bị cáo là có căn cứ.

[5]. Về dân sự: Không.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST sơ thẩm và án phí DSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Văn A phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điều 47 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Các Điều 106; Điều 331; Điều 333; Điều 336 BLTTHS 2015.

Xử phạt: Lò Văn A 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không.

Dân sự: Không.

Vật chứng: Trả lại bị cáo 01 ĐTDĐ nhãn hiệu MI màu xanh đã qua sử dụng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia N1110,V640 màu đen trắng, lắp sim liên lạc, đã qua sử dụng. Hiện vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/01/2021.

2- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm. Báo cho bị cáo, Người bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2021/HS-ST

Số hiệu:33/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về