Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HÀ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 33/2021/HS-ST NGÀY 23/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Văn D1. Sinh ngày 07/5/1974, tại Khoái Châu – Hưng Yên. Nơi cư trú: Thôn X, xã Q1, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T và bà Đào Thị B; Có vợ là Nông Thị Ngọc và 02 con. Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 24/12/1997 bị Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán phụ nữ”. Ngày 15/11/2006 bị áp dụng biện pháp bắt buộc cai nghiện tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội Vũ Oai; đến ngày 25/7/2008 được trở về sinh sống tại nơi cư trú. Ngày 27/01/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Hải Hà xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; đến ngày 01/4/2014 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương. Bị cáo đã chấp hành xong nghĩa vụ dân sự. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Hải Hà, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn D1 là bà Nguyễn Thị Hòa là Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

- Bị hại: bà Đinh Thị B1, sinh ngày 10/3/1969.

Địa chỉ: Thôn Y, xã Q2, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Đào Văn P1, sinh ngày 02/9/1984.

Địa chỉ: Thôn H1, xã Q3, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 26/4/2021, Nguyễn Văn D1 đi qua khu vực thôn 1, xã Q2, huyện Hải Hà phát hiện thấy nhà bà Đinh Thị B1 (không có người trông coi) có 02(hai) cánh cổng bằng Inox nên nảy sinh ý định chiếm đoạt để sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 27/4/2021, D1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS 16F3 - 5577 (xe D1 mượn của anh Đào Văn P1, sinh năm 1984, trú tại thôn H1, xã Q3, huyện Hải Hà) kéo theo xe ba bánh tự chế dùng để chở hàng hóa của D1 và cầm theo 01 chiếc xà beng bằng sắt dài khoảng 1,5 mét đi đến nhà bà B1. Lợi dụng đêm tối, D1 dùng xà beng kê phía dưới cổng nhấc lên làm hai cánh cổng bung khỏi bản lề, rồi D1 cho 02 cánh cổng Inox lên xe ba bánh chở về nhà ở Thôn X, xã Q1, huyện Hải Hà cất giấu. Sau khi bị mất tài sản, bà B1 đến cơ quan Công an trình báo. Cơ quan điều tra đã thu giữ 02 cánh cổng inox do D1 trộm cắp, trả lại cho bị hại bà Đinh Thị B1.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 242 ngày 04/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hải Hà kết luận: 02 (hai) cánh cổng bằng inox, cao 3,2m; nặng 111,6 kg thiết kế mái vòm, có đầu giáo là vật chứng trong vụ án trộm cắp tài sản xảy ra ngày 27/4/2021 tại thôn 1, xã Q2 tại thời điểm định giá, trị giá 10.714.000 đồng (Mười triệu bảy trăm mười bốn nghìn đồng) .(Bút lục số 64) Về vật chứng vụ án: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, BKS 16F3-5577 và 02 cánh cổng bằng Inox, cao 3,2m, nặng 111,6kg, thiết kế kiểu mái vòm, có đầu giáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hà đã trả cho chủ sở hữu là anh Đào Văn P1 và chị Đinh Thị B1 (BL 30 – 156); Đối với 01 xà beng bằng kim loại dài 154cm, 01 xe ba bánh tự chế không có động cơ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hà đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Hà để xử lý theo quy định.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại là chị Đinh Thị B1 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn D1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại là chị Đinh Thị B1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, đồng thời có quan điểm: Về dân sự: chị không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Về hình sự: Đề nghị Tòa án xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Đào Văn P1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đó anh có quan điểm : anh có cho bị cáo D1 mượn chiếc xe mô tô BKS 16F3-5577, nhưng không biết việc bị cáo đã sử dụng chiếc xe này đi trộm cắp tài sản. Nay Cơ quan công an đã trả lại anh chiếc xe nên anh không có ý kiến gì thêm.

Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 31/CT-VKSHH ngày 14/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hà truy tố bị cáo Nguyễn Văn D1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D1 từ 12 tháng đến 15 tháng tù tính từ ngày bị bắt 27/4/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 xà beng bằng kim loại dài 154cm, tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 xe ba bánh tự chế không có động cơ của Nguyễn Văn D1.

Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Nguyễn Thị Hòa nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo, về phần hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với vật chứng đã được thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo thừa nhận: những lời khai tại cơ quan điều tra là tự nguyện, đúng sự thật, không bị ép cung, mớm cung hoặc nhục hình; kết hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được làm rõ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy đủ căn cứ để kết luận bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 27/4/2021, tại thôn 1, xã Q2, huyện Hải Hà, Nguyễn Văn D1 có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 cánh cổng làm bằng Inox của bà Đinh Thị B1 trị giá 10.714.000 (Mười triệu bảy trăm mười bốn nghìn) đồng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp “1. trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hà đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và hình phạt đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý; xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, là người đã thành niên nhưng không chịu lao động chân chính mà đi trộm cắp tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu cá nhân. Vì vậy cần phải có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, lấy giáo dục riêng để phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu. Tình tiết tăng nặng: không có. Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt và mượn. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với: 01 xà beng bằng kim loại dài 154cm, một đầu nhọn, một đầu dẹp là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy. 01 xe ba bánh tự chế không có động cơ, cao 70cm, dài 170cm, rộng 80cm là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn D1 thuộc hộ nghèo, đã có đơn xin miễn án phí và các tài liệu chứng cứ kèm theo nộp cho Tòa án. Nên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn án phí.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án đối với anh Đào Văn P1 cho D1 mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS 16F3-5577, nhưng không biết D1 dùng xe đi trộm cắp tài sản nên không đề cập xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D1 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 27/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 xà beng bằng kim loại dài 154cm, một đầu nhọn, một đầu dẹp.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 xe ba bánh tự chế không có động cơ, cao 70cm, dài 170cm, rộng 80cm.

(Vật chứng nêu trên tình trạng như tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 30/CCTHADS ngày 17 tháng 6 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hà và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Hà).

3. Về án phí: Bị cáo được miễn án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 1, 4 Điều 331 và khoản 1, 3 Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 33/2021/HS-ST

Số hiệu:33/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về