Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 32/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:

Ninh Thành T, sinh năm 1994, tại Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú: Ấp Y, xã N T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở hiện nay: Khu Z, thị trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ninh Văn B, sinh năm 1958 và bà Trần Thị L, sinh năm 1960; vợ, con, tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/10/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 44/2016/QĐ- TA với thời hạn 12 tháng. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

- Bị hại: Bà Đặng Thị H, sinh năm 1961, nơi cư trú: Tổ 3, Khu X, thị trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Chị Ninh Thị N, sinh năm 1988, nơi cư trú: Ấp Y, xã N T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

+ Anh Điệp Vũ B, sinh năm 1987, nơi cư trú: Tổ 3, Khu X, thị trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 03/8/2021, Ninh Thành T điều khiển xe mô tô biển số 60B4-217.53 đến tiệm tạp hóa “Cô H” của bà Đặng Thị H thuộc Tổ 3, Khu X, thị trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai để mua một thẻ cào điện thoại di động mệnh giá 20.000 đồng và sau đó đi về. Trong lúc mua thẻ cào, T nhìn thấy tại tiệm tạp hóa chỉ có một mình bà H nên trên đường đi về T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định, T điều khiển xe quay lại tiệm tạp hóa dựng xe trước cửa tiệm rồi đi vào trong tiệm tạp hóa. Lúc này, T thấy không có ai trông nên T lén lút dùng tay mở cửa tủ gỗ rồi lấy hai ví da (01 ví da màu đỏ, 01 ví da màu xanh đen) của bà H, rồi điều khiển xe đi về nhà.

Về đến nhà, T mở 02 ví ra kiểm tra thấy bên trong có nhiều thẻ cào điện thoại di động, có các mệnh giá 20.000 đồng, 50.000 đồng và 100.000 đồng của 03 nhà mạng Viettel, Mobiphone và Vinaphone. T lấy tổng cộng 77 thẻ cào mệnh giá 100.000 đồng và 08 thẻ cào mệnh giá 50.000 đồng của 03 nhà mạng Viettel, Mobiphone và Vinaphone nạp vào game bài Vuaclup (loại trò chơi đánh bài trên điện thoại di động). Sau khi nạp số thẻ cào trên, thấy tài sản chiếm đoạt có giá trị lớn và hối hận về hành vi của mình, T lấy số thẻ cào chưa sử dụng còn lại có mệnh giá 20.000 đồng và 50.000 đồng và viết thư xin lỗi bỏ vào ví da màu đỏ với mục đích trả lại cho bà H. Còn số thẻ cào đã sử dụng, T bỏ vào ví da màu xanh đen rồi đem bỏ vào thùng rác. Đến sáng ngày 04/8/2021, T đi qua tiệm tạp hóa “Cô H” mua đồ rồi nhân lúc bà H không để ý, T đã đem ví da màu đỏ để bên hông tiệm tạp hóa để trả lại cho bà H. Khi nhìn thấy ví màu đỏ thì bà H cùng gia đình kiểm tra thì phát hiện số thẻ cào điện thoại trong ví có 62 thẻ cào loại mệnh giá 50.000 đồng và 240 thẻ cào loại mệnh giá 20.000 đồng. Đến ngày 05/8/2021, bà H đã trình báo sự việc đến Công an thị trấn T P. Đến ngày 19/8/2021, Ninh Thành T đến Công an thị trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 27/KL-HĐĐGTS ngày 24/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Phú kết luận: 387 thẻ cào và 02 ví giả da, trị giá tài sản là 15.554.000đ (Mười lăm triệu năm trăm năm mươi bốn nghìn đồng).

Cáo trạng số: 18/CT-VKSTP-ĐN ngày 12/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Trên cơ sở phân tích dấu hiệu phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

Về tội danh: Bị cáo Ninh Thành T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về mức hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Ninh Thành T từ 12 (mười hai) đến 14 (mười bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 ví da màu đỏ bên trong có chứa 62 thẻ cào loại mệnh giá 50.000 đồng, 240 thẻ cào loại mệnh giá 20.000 đồng của 03 nhà mạng Viettel, Mobiphone và Vinaphone, Công an thị trấn T P, huyện Tân Phú đã trao trả lại cho chủ sở hữu.

Đối với xe mô tô biển số 60B4-217.53 tài sản của gia đình Ninh Thành T, gia đình không biết việc T sử dụng để đi trộm cắp tài sản nên cơ quan Công an đã trao trả lại cho chủ sở hữu.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại. Bị hại đã nhận lại tài sản và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không có yêu cầu gì thêm.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nội dung lời khai của những người tham gia tố tụng trong hồ sơ vụ án:

- Lời khai của bị cáo Ninh Thành T trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận nội dung của Bản cáo trạng là đúng sự thật; bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Lời khai của bị hại: Hành vi của bị cáo chiếm đoạt tài sản của bị hại đúng như Kết luận điều tra và Cáo trạng đã mô tả. Tài sản bị mất đã nhận lại nên không yêu cầu bồi thường gì thêm và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

- Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Ninh Thị N trình bày: Chị là chị gái của bị cáo. Sự việc bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 60B4-217.53 của gia đình để trộm cắp tài sản thì chị không biết.

Sau khi sự việc phát hiện thì chị đã thay mặt cho bị cáo đến bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 8.000.000 đồng. Số tiền trên là của bị cáo nên chị không có ý kiến gì đối với việc giải quyết vụ án.

- Anh Diệp Vũ B trình bày: Anh là con trai của người bị hại bà H. Sau khi phát hiện bị mất tài sản thì bà H báo cho anh biết. Trong quá trình giải quyết vụ án thì anh đã nhận số tiền 8.000.000 đồng bồi thường thiệt hại của phía bị cáo và anh đã giao lại cho mẹ anh là bà Đặng Thị H. Anh không có ý kiến hay yêu cầu gì đối với việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về trách nhiệm hình sự: [2.1]. Xét về hành vi phạm tội:

Bị cáo Ninh Thành T thừa nhận bản cáo trạng truy tố là đúng. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng, kết luận định giá và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 08 giờ ngày 03/8/2021, tại tiệm tạp hóa “Cô H” của bà Đặng Thị H thuộc Tổ 3, Khu X, thị trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, Ninh Thành T đã có hành vi lén lút trộm cắp 02 chiếc ví da bên trong có 387 thẻ cào điện thoại di động (thuộc nhà mạng Vinaphone, Mobiphone và Viettel) có các loại mệnh giá từ 20.000 đồng, 50.000 đồng và 100.000 đồng của bà Đặng Thị H có tổng vị giá tài sản là 15.554.000đ (Mười lăm triệu năm trăm năm mươi bốn nghìn đồng).

Hành vi do bị cáo thực hiện có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh mà Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2]. Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ trực tiếp xâm phạm tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó phải xử lý bị cáo theo pháp luật hình sự là cần thiết nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Cần tuyên mức án tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục, răn đe bị cáo trở thành công dân tốt có ích và đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân: Ngày 27/10/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Định Quán, Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Từ nội dung đánh giá nêu trên, tuy bị cáo đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng đã quá 06 tháng và phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng; sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khi vụ án chưa bị phát hiện nhưng bị cáo đã tự hối lỗi và trả lại một phần tài sản bị chiếm đoạt để làm giảm hậu quả hành vi phạm tội cho thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo là có căn cứ, nhằm nâng cao tính giáo dục pháp luật và thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

Tòa án mở phiên tòa xét xử công khai vụ án nhằm xử lý hành vi phạm tội của bị cáo và tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong xã hội.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 ví da màu đỏ bên trong có chứa 62 thẻ cào loại mệnh giá 50.000 đồng, 240 thẻ cào loại mệnh giá 20.000 đồng của 03 nhà mạng Viettel, Mobiphone, Vinaphone, Công an thị trấn T P đã trao trả lại cho chủ sở hữu.

Đối với xe mô tô biển số 60B4-217.53 tài sản của gia đình Ninh Thành T, gia đình không biết việc T sử dụng để đi trộm cắp tài sản nên cơ quan Công an đã trao trả lại cho chủ sở hữu.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét.

[8]. Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9]. Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội và mức hình phạt của bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

1. Tuyên bố: Bị cáo Ninh Thành T phạm tội: “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Ninh Thành T 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Ninh Thành T cho Ủy ban nhân dân thị trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 292; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về