Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

Vi Văn T, sinh năm 1986, đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn N, xã L, huyện K, tỉnh Lạng Sơn; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 06/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Vi Văn Tích, sinh năm 1951; họ tên mẹ: Hà Thị M, sinh năm 1953; gia đình có 09 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu; họ tên vợ: Vũ Thị Hường, đã ly hôn; bị cáo có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 56/2018/HSST ngày 14/03/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xử phạt Vi Văn T 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/04/2019, đã xóa án tích.

Bị cáo bị bắt quả tang và bị tạm giữ từ ngày 30/07/2021 đến ngày 02/08/2021 hủy tạm giữ. Ngày 25/11/2021, bị cáo bị bắt truy nã. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và đô thị S3; trụ sở: Số 68 Lưu Hữu Ph, Tòa nhà công cộng, khu đô thị mới D I, phường Cầu D, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Ông Đỗ Văn V; chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị; Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1987; chức vụ: Chỉ huy Trưởng công trình; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Thái H, xã Trực C, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Phòng 1117, tòa nhà 18T2 The G, xã An Kh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 30/7/2021, tại khu công trường thi công dự án EURO Window Q, TQ5, thị trấn E, K, Hà Nội, tổ bảo vệ của công trường phát hiện bắt quả tang Vi Văn T đang có hành vi trộm cắp 68 thanh sắt, tổng trọng lượng 129.8kg của Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và đô thị S3, sau đó Tổ bảo vệ đã bàn giao đối tượng cùng tang vật cho Công an thị trấn E thuộc Công an huyện K lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vi Văn T.

Vật chứng thu giữ của Vi Văn T gồm:

+ 15 cây sắt có đường kính 14mm, nặng 36kg, dài 2,1m;

+ 05 cây sắt có đường kính 22mm, nặng 17kg, dài 1,1m;

+ 25 cây sắt có đường kính 14mm, cân nặng 47kg, chiều dài 1,7m;

+ 07 cây sắt có đường kính 12mm, cân nặng 17kg, chiều dài 2,8m;

+ 02 cây sắt có đường kính 10mm, cân nặng 3kg, chiều dài 1,65m;

+ 08 cây sắt có đường kính 14mm, cân nặng 7kg, chiều dài 0,75m;

+ 05 cây sắt có đường kính 10mm, cân nặng 2kg, chiều dài 0,85m;

+ 01 cây sắt có đường kính 12mm, cân nặng 0,8kg, chiều dài 0,64m;

+ 01 Chiếc xe máy đeo biển số 34P1-0842, số khung số máy có dấu hiệu tẩy xóa, đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Vi Văn T khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 30/7/2021, đối tượng Quân (không rõ nhân thân) rủ T đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu, T đồng ý. Sau đó Quân điều khiển xe máy đeo BKS 34P1-0842 chở T đi từ xã Phù Đổng, huyện K, thành phố Hà Nội đến khu vực thị trấn E, huyện K với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu vực công trường xây dựng dự án TQ5 gần Bệnh viện đa khoa K, T đi bộ vào trong công trường còn Quân đỗ xe máy đứng ở ngoài cảnh giới. T đi vào trong công trường, không thấy ai, T nhìn thấy dưới đất có nhiều thanh sắt buộc nối vào nhau, T dùng tay ép các thanh sắt đó để cho bung các mối nối, sau đó bê tất cả các thanh sắt đó ra ngoài để lên xe máy của Quân đang chờ sẵn. Thấy có người hô hoán, T điều khiển xe máy chở Quân cùng các thanh sắt trộm cắp được bỏ chạy được một đoạn thì T bị bảo vệ bắt giữ cùng vật chứng còn đối tượng Quân chạy thoát.

Tại Kết luận định giá tài sản số 156/KL-HĐĐGTS ngày 20/08/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận:

+ 15 thanh sắt có phi 14mm, chiều dài trung bình 2,1m, tổng trọng lượng 36kg, có giá trị: 648.000 đồng (18.000 đồng/01kg).

+ 05 thanh sắt có phi 22mm, chiều dài trung bình 1,1m, tổng trọng lượng 17kg, có giá trị: 306.000 đồng (18.000 đồng/01kg).

+ 25 thanh sắt có phi 14mm, chiều dài trung bình 1,7m, tổng trọng lượng 47kg, có giá trị: 846.000 đồng (18.000 đồng/01kg).

+ 07 thanh sắt có phi 12mm, chiều dài trung bình 2,8m, tổng trọng lượng 17kg, có giá trị: 306.000 đồng (18.000 đồng/01kg).

+ 02 thanh sắt có phi 10mm, chiều dài trung bình 1,65m, tổng trọng lượng 03kg, có giá trị: 54.000 đồng (18.000 đồng/01kg).

+ 08 thanh sắt có phi 14mm, chiều dài trung bình 0,75m, tổng trọng lượng 07kg, có giá trị: 126.000 đồng (18.000 đồng/01kg).

+ 01 thanh sắt có phi 12mm, chiều dài trung bình 0,64m, tổng trọng lượng 0,8kg, có giá trị: 14.000 đồng (18.000 đồng/01kg).

+ 05 thanh sắt có phi 10mm, chiều dài trung bình 0,85m, tổng trọng lượng 02kg, có giá trị: 36.000 đồng (18.000 đồng/01kg).

Tổng cộng: 2.336.000 đồng (Hai triệu ba trăm ba mươi sáu nghìn đồng). Ngày 21/09/2021, Cơ quan điều tra công an huyện K đã quyết định xử lý, đồ vật, tài liệu, trao trả cho người đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và đô thị S3 là anh Hoàng Văn Dũng toàn bộ số sắt nói trên. Anh Dũng đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì về trách nhiệm dân sự của bị cáo.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius đeo biển số 34P1-0842, do cơ quan điều tra thu giữ của Vi Văn T, T khai nhận là xe máy của đối tượng Quân. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với chiếc xe máy này. Tại bản kết luận giám định số 7101 ngày 04/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius đeo biển số 34P1-0842, hiện tại có số máy: 5C63 – 520169 là số nguyên thủy. Tại vị T số khung có dấu vết tẩy xóa, xác định được một số ký số khung nguyên thủy là RLCS5C630?...? (“?” là ký tự không xác định được). Qua kết quả tra cứu biển số xe 34P1-0842 là biển số giả. Đến nay không có căn cứ xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe máy trên. Do vậy, Cơ quan điều tra, Công an huyện K đã ra quyết định xử lý vật chứng số 138 ngày 19/11/2021 tách chiếc xe máy trên để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Đối với đối tượng Quân tham gia trộm cắp tài sản cùng với Vi Văn T, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra đã tách tài liệu liên quan đến đối tượng Quân, để tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, Vi Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài li ệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 07/CT-VKSGL ngày 25 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Vi Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Vi Văn T từ 08 tháng đến 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2021, được trừ thời gian bị tạm giữ từ 30/07/2021 đến ngày 02/08/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu giải quyết nên không xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra công an huyện K đã trao trả số tài sản do T trộm cắp được cho bị hại là phù hợp quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius đeo biển số 34P1-0842 mà Cơ quan Công an thu giữ của Vi Văn T: Qua xác minh chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ra quyết định tách tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người đại diện hợp pháp của bị hại Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và đô thị S3 là anh Hoàng Văn Dũng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của anh Dũng không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Dũng.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 30/7/2021, tại khu công trường thi công dự án EURO Window Q, TQ5, thị trấn E, huyện K, thành phố Hà Nội, bị cáo Vi Văn T đã có hành vi trộm cắp 68 thanh sắt, tổng trọng lượng 129,8 kg có giá trị 2.336.000 đồng của Công ty Cổ phần đầu tư phát triển nhà và đô thị S3 thì bị Tổ bảo vệ của công trường phát hiện bắt quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của tổ chức nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả gây ra nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với động cơ vụ lợi cá nhân.

[4.2] Về nhân thân bị cáo: Năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xử phạt Vi Văn T 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/04/2019, đã xóa án tích. Bị cáo bị bắt trong thời gian bị Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện K áp dụng biện pháp truy nã. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo, nhưng không cố gắng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[4.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius đeo biển số 34P1-0842 mà Cơ quan Công an thu giữ của Vi Văn T: Qua xác minh chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ra quyết định tách tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục điều tra, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xét.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự của bị cáo nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng Quân tham gia trộm cắp tài sản cùng với Vi Văn T, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra đã tách tài liệu liên quan đến đối tượng Quân, để tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vi Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vi Văn T 08 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2021, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 30/07/2021 đến ngày 02/08/2021.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự nên không xét.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Vi Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại là Công ty Cổ phần đầu tư phát triển nhà và đô thị S3 vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về