Bản án về tội trộm cắp tài sản số 301/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 301/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 07 năm 2022, tại Hội trường 4 - Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 288/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 310/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Vũ Bùi Thuận H. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không. Sinh ngày 20 tháng 02 năm 1982, tại: tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: khu phố 3, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: không. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không. Trình độ học vấn: Lớp 08/12. Họ tên cha: Vũ Anh L (đã chết). Họ tên mẹ: Bùi Thị D, sinh năm: 1944, còn sống.Họ tên anh: Vũ Thanh N, sinh năm: 1967. Họ tên anh: Vũ Vinh Q, sinh năm: 1970. Họ tên vợ: Võ Thị Ngọc H, (sinh năm 1993) và có 02 con (lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017). Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/01/2022 đến ngày 28/01/2022 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 217 ngày 28/01/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

2. Hồ Phi H1. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không. Sinh năm 2000, tại: tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: không. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Họ tên cha: Hồ Thanh H, sinh năm: 1971, còn sống. Họ tên mẹ: Cao Thị Phi N, sinh năm: 1969, còn sống. Họ tên em: Hồ Thanh H, sinh năm: 2010. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 25/12/2021 bị UBND phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa ra Quyết định số 110 xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ vể hành vi trộm cắp tài sản, đã giao nhận Quyết định ngày 17/01/2022.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/01/2022 đến ngày 28/01/2022 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 218 ngày 28/01/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: bà Đinh Thị Th, sinh năm 1964. Địa chỉ: khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty TNHH P.

Địa chỉ trụ sở: khu phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Đại diện theo pháp luật: bà Phan Thị Hiền L – Giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: bà Đinh Thị T, sinh năm 1964. (Văn bản ủy quyền ngày 21/01/2022). Địa chỉ: khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bà Lê Thị H2, sinh năm 1971. Địa chỉ: tổ 6, khu phố 10, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ ngày 19/01/2022 đến ngày 21/01/2022, Vũ Bùi Thuận H, Hồ Phi H1 và Nguyễn Tấn P đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại công trường thi công khu dân cư Bửu Long thuộc tổ 11, khu phố 2, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 18 giờ 20 phút ngày 19/01/2022, Hồ Phi H1 điều khiển xe mô tô biển số 60V9- 6949 đi đến phòng trọ của Nguyễn Tấn P thuộc tổ 14, khu phố 2, phường B, thành phố B để chơi thì gặp Vũ Bùi Thuận H cũng đang ngồi chơi tại phòng trọ của P. Trong lúc ngồi chơi thì P rủ H1, H đi đến công trường thi công khu dân cư Bửu Long do Công ty trách nhiệm hữu hạn P thi công thuộc tổ 11, khu phố 2, phường B, thành phố B để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, H1, H đồng ý. Sau đó, Hồ Phi H1 điều khiển xe mô tô biển số 60V9- 6949 chở Vũ Bùi Thuận H, còn Nguyễn Tấn P điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đi đến công trường thi công khu dân cư Bửu Long thì phát hiện có 01 (môt) cuộn lưới B40 của Công ty trách nhiệm hữu hạn P để tại công trường và không có người trông coi nên cả ba dừng xe mô tô lại, H1, H xuống xe khiêng cuộn lưới kẽm B40 lên xe mô tô của P chở đến tiệm phế liệu (không có biển hiệu) của chị Lê Thị H2 (sinh năm 1971) thuộc địa chỉ khu phố 10, phường T, thành phố B bán cho chị H2, chị H2 không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có nên đã mua với giá 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng). H1, H, P chia nhau mỗi người 200.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) đã tiêu xài hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 13 giờ ngày 21/01/2022, Hồ Phi H1, Vũ Bùi Thuận H đi đến phòng trọ của Nguyễn Tấn P thuộc tổ 14, khu phố 2, phường B, thành phố B để chơi. Trong lúc ngồi chơi, P tiếp tục rủ H1, H đi đến công trường thi công khu dân cư Bửu Long do Công ty trách nhiệm hữu hạn P thi công thuộc tổ 11, khu phố 2, phường B, thành phố B để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, H1, H đồng ý. Sau đó, Hồ Phi H1 điều khiển xe mô tô biển số 60V9- 6949 chở Vũ Bùi Thuận H, còn Nguyễn Tấn P điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đi đến công trường thi công khu dân cư Bửu Long thì phát hiện 01 (một) bó sắt phi 8 được cắt thành nhiều đoạn khác nhau. H xuống xe đi lại khiêng bỏ lên xe nhưng do bó sắt nặng không khiêng được nên bỏ đi về không tham gia lấy trộm. Sau khi, H bỏ về thì H1, P cùng nhau khiêng bó sắt lên xe của P chở đến tiệm phế liệu (không có biển hiệu) của chị Lê Thị H2 (sinh năm 1971) thuộc địa chỉ khu phố 10, phường T, thành phố B bán cho chị H2, chị H2 không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có nên đã mua với giá với giá 1.000.000 đồng (một triệu đồng), P lấy 680.000 đồng (sáu trăm tám mươi nghìn đồng), chia cho H1 số tiền 320.000 đồng (ba trăm hai mươi nghìn đồng), số tiền này P, H1 đã tiêu xài hết.

Vụ thứ ba: Vũ Bùi Thuận H sau khi bỏ về không tham gia việc trộm cắp 01 bó sắt phi 8 vào ngày 21/01/2022 cùng với H1, P, thì đến khoảng 21 giờ 10 phút cùng ngày, H điều khiển xe đạp nhãn hiệu Martin đi đến công trường thi công khu dân cư Bửu Long do Công ty trách nhiệm hữu hạn P thi công thuộc tổ 11, khu phố 2, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến nơi H phát hiện thấy 01 (một) cuộn dây điện Cadivi- CVV2x1,5-300/500V còn nguyên bọc của Công ty trách nhiệm hữu hạn P đang để tại công trình và không có người trông coi, H đi lại lấy cuộn dây điện để lên xe đạp rồi đạp xe đạp bỏ đi. Khi H đi ra đến đầu đường vào công trình thì bị Công an phường Bửu Long đang tuần tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 33/TCKH-HĐĐG ngày 25/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa, kết luận: “01 (một) cuộn dây điện Cadivi-CVV2x1,5-300/500V, có giá trị là 5.400.000 đồng (năm triệu, bốn trăm nghìn đồng); 01 (một) bó sắt loại sắt phi 8, có giá trị là 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và 01 (một) cuộn lưới kẽm B40, có giá trị là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng). Tổng cộng giá trị tài sản là 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng)”.

Vật chứng của vụ án thứ nhất:

- 01 (một) cuộn lưới kẽm B40, sau khi mua của P thì chị H đã bán cho người khác (không rõ nhân thân, lai lịch) nên không thu giữ được.

- Số tiền 630.000 đồng (sáu trăm ba mươi nghìn đồng) là tiền bán cuộn lưới B40 do chị Lê Thị H giao nộp, tuy nhiên khi mua tài sản này chị H không biết đây là tài sản do Vũ Bùi Thuận H, Hồ Phi H1 trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho H (bút lục số: 114; 137).

Vật chứng của vụ án thứ hai:

- 01 (một) xe mô tô biển số 60V9- 6949 là của chị Cao Thị Phi N (là mẹ ruột của Hồ Phi H1), chị N cho H1 mượn xe nhưng không biết H1 sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại xe cho chị N (bút lục số: 104a) - 01 (một) bó sắt phi 8 trọng lượng 100 kg được cắt thành nhiều đoạn khác nhau do chi Lê Thị H2 giao nộp là tài sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn P nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn P. (bút lục số: 69a; 136).

Vật chứng của vụ án thứ ba:

- 01 (một) cuộn dây điện Cadivi-CVV2x15-300/500V là tài sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn P nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn P. (bút lục số: 01; 69a) - 01 (một) xe đạp hiệu Martin là xe của Vũ Bùi Thuận H. (bút lục số: 01) - 01 USB ghi lại cảnh các bị cáo trộm cắp tài sản lưu hồ sơ vụ án.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 33/TCKH-HĐĐG ngày 25/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa, kết luận: “01 (một) cuộn dây điện Cadivi-CVV2x1,5-300/500V, có giá trị là 5.400.000 đồng (năm triệu, bốn trăm nghìn đồng); 01 (một) bó sắt loại sắt phi 8, có giá trị là 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và 01 (một) cuộn lưới kẽm B40, có giá trị là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng). Tổng cộng giá trị tài sản là 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng)”. (bút lục số: 44- 47) Về dân sự: Công ty trách nhiệm hữu hạn P và chị Lê Thị H2 đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bản cáo trạng số: 293/CT-VKSBH-HS ngày 13 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Vũ Bùi Thuận H và Hồ Phi H1, về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Vũ Bùi Thuận H mức án từ 10 -12 tháng tù và áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo: Hồ Phi H1 từ 08 – 10 tháng tù. Xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Quá trình điều tra, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ như lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Trong thời gian từ ngày 19/01/2022 đến ngày 21/01/2022, tại công trường thi công khu dân cư Bửu Long do Công ty trách nhiệm hữu hạn P thi công (giao cho bà Đinh Thị Th thủ kho công trình nhiệm vụ trông coi) thuộc tổ 11, khu phố 2, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, Vũ Bùi Thuận H, Hồ Phi H1 và Nguyễn Tấn P đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 18 giờ 20 phút ngày 19/01/2022, Vũ Bùi Thuận H, Hồ Phi H1 và Nguyễn Tấn P đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 01 (môt) cuộn lưới kẽm B40 có giá trị theo Kết luận định giá tài sản số: 33/TCKH-HĐĐG ngày 25/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) của Công ty trách nhiệm hữu hạn P.

Vụ thứ hai: Khoảng 13 giờ ngày 21/01/2022, Hồ Phi H1 và Nguyễn Tấn P đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 01 (một) bó sắt loại sắt phi 8, có giá trị theo Kết luận định giá tài sản số: 33/TCKH-HĐĐG ngày 25/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa là 1.000.000 đồng (một triệu đồng) của Công ty trách nhiệm hữu hạn P.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 21 giờ 10 phút ngày 21/01/2022, Vũ Bùi Thuận H đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 01 (một) cuộn dây điện Cadivi-CVV2x1,5- 300/500V, có giá trị theo Kết luận định giá tài sản số: 33/TCKH-HĐĐG ngày 25/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa là 5.400.000 đồng (năm triệu, bốn trăm nghìn đồng) của Công ty trách nhiệm hữu hạn P thì bị Công an phường Bửu Long đang tuần tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Vũ Bùi Thuận H thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản trộm cắp là 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng).

Hồ Phi H1, Nguyễn Tấn P thực hiện 02 vụ trộm cắp với tổng giá trị tài sản trộm cắp là 1.600.000 đồng (một triệu, sáu trăm nghìn đồng).

Như vậy, các bị cáo Vũ Bùi Thuận H và Hồ Phi H1 đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn P, giá trị tài sản do Vũ Bùi Thuận H chiếm đoạt là 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) nên hành vi của bị cáo Vũ Bùi Thuận H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173; giá trị tài sản do Hồ Phi H1 chiếm đoạt là 1.600.000 đồng (một triệu, sáu trăm nghìn đồng) nhưng bị cáo đã bị UBND phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản (Quyết định số 110 ngày 25/12/2021) nên hành vi của bị cáo Hồ Phi H1 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo Vũ Bùi Thuận H và Hồ Phi H1 là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nhưng lười lao động, muốn có tiền tiêu xài nên đã cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo đã lợi dụng lúc bị hại sơ hở trong việc quản lý tài sản để đột nhập lấy trộm tài sản đem đi tiêu thụ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được Nhà nước bảo vệ, làm mất trật tự xã hội tại địa phương nên cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

- Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Đối với các vấn đề khác:

Đối với Nguyễn Tấn P là người cùng tham gia trộm cắp với Vũ Bùi Thuận H, Hồ Phi H1 vào ngày 19/01/2022 và ngày 21/01/2022, tuy nhiên giá trị tài sản P tham gia trộm cắp dưới 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa ra quyết định xử phạt hành chính đối với P là phù hợp.

Đối với Lê Thị H2 là người mua 100 kg sắt phi 8 được cắt nhiều kích thước khác nhau và 01 cuộn lưới B40 của Vũ Bùi Thuận H, Hồ Phi H1 và Nguyễn Tấn P, chị H2 không biết đây là tài sản do H, H1 và P trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chị H2 là phù hợp.

[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn P và chị Lê Thị H2 đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu sung công quỹ Nhà nước xe đạp hiệu Martin của Vũ Bùi Thuận H là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

(Vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Vũ Bùi Thuận H và Hồ Phi H1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): xử phạt Vũ Bùi Thuận H 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 23/01/2022 đến ngày 28/01/2022.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): xử phạt Hồ Phi H1 07 (bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 23/01/2022 đến ngày 28/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu sung công quỹ Nhà nước xe đạp hiệu Martin của Vũ Bùi Thuận H là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

(Vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa) Lưu kèm hồ sơ 01 USB ghi lại cảnh các bị cáo trộm cắp tài sản.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Vũ Bùi Thuận H và Hồ Phi H1 mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự Các bị cáo Vũ Bùi Thuận H và Hồ Phi H1 được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 301/2022/HS-ST

Số hiệu:301/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về