Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 31/10/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 10 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo: Huỳnh Quốc V (tên gọi khác: CTB), sinh năm 1978 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Khóm B, phường A, thành phố CM, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn B và bà Vương Ngọc C; anh chị em ruột: 04 người;

vợ: Nguyễn Thị Trúc L (đã ly hôn); con: 02 người; tiền án: Không. Ngày 28/5/2002 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử 09 tháng tù tại Bản án số 41/HS-ST về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 16/4/2003 bị Tòa án nhân Tối Cao xét xử 02 năm tù tại Bản án số 565/HS-PT về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”. Ngày 26/7/2005 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử 18 tháng tù tại Bản án số 162/HS-ST về tội “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 16/3/2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử 01 năm 06 tháng tù tại Bản án số 41/HS-ST về tội “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 14/8/2009 bị Tòa án nhân tỉnh Cà Mau xét xử tại Bản án số 04/HS-ST về tội “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 03/7/2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử 01 năm 06 tháng tù tại Bản án số 57/HS-PT về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”. Ngày 27/8/2015 bị Tòa án nhân tỉnh Cà Mau xét xử 01 năm 03 tháng tù tại Bản án số 123/HS-PT về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: 01 tiền sự, ngày 05/12/2011 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng tại Quyết định số 1859/QĐ-UB về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”. Ngày 11/11/2019 bị Tòa án nhân huyện U Minh đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng tại Quyết định số 11/QĐ- TA về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; bị bắt ngày 20/7/2023 (có mặt).

- Bị hại:

1. Anh Võ Minh Đ, sinh năm: 1993; địa chỉ cư trú: Khóm C, thị trấn ĐD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

2. Chị Phạm Cẩm T, sinh năm: 1994; địa chỉ cư trú: Khóm C, thị trấn ĐD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1974; địa chỉ cư trú: Số 217, TPX, khóm B, phường A, thành phố CM, tỉnh Cà Mau (có mặt).

2. Anh Võ Hoàng G, sinh năm 1989; địa chỉ cư trú: Đường RR, khóm D, phường A, thành phố CM, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 13/7/2023, Huỳnh Quốc V điều khiển xe nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha màu xanh biển kiểm soát số 69B1-xxxxx đi từ thành phố CM, tỉnh Cà Mau đến thị trấn ĐD, huyện ĐD để tìm người quen. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày V điều khiển xe về thành phố CM, trên đường đi ngang qua tiệm thực phẩm đông lạnh Đ thuộc khóm C, thị trấn ĐD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau không thấy người trông coi và quan sát thấy 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung S21 FE và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung A51 để trên bàn, cạnh lối ra vào tiệm nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. V dừng xe trước tiệm đi đến vị trí 02 điện thoại trên và đã lén lúc lấy 02 điện thoại trên bỏ vào túi quần ra xe điều khiển về thành phố CM. Sau đó, V bán cho anh Võ Hoàng G 01 điện thoại di động hiệu Samsung S21 FE, giá 1.600.000đ,01 điện thoại còn lại giữ để sử dụng.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-ĐGTS ngày 18/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đầm Dơi kết luận:

01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung S21 FE giá trị 4.750.000đ.

01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A51 giá trị 2.900.000đ.

Tổng giá trị tài sản 7.650.000đ.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A51 đã trả cho anh Võ Minh Đ, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave alpha màu xanh biển kiểm soát số 69B1-xxxxx của Huỳnh Thị Thu H.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại 4.750.000đ. Các bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Từ những tình tiết nêu trên, tại Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 04/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Huỳnh Quốc V về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung Cáo trạng đã nêu.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Việt từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bà H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha màu xanh biển kiểm soát số 69B1-xxxxx. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường, bà H không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 4.750.000đ nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đầm Dơi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Quốc V thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi truy tố. Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời trình bày của bị cáo, bị hại, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: khoảng 09 giờ ngày 13/7/2023 tại tiệm thực phẩm đông lạnh Đ thuộc khóm C, thị trấn ĐD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau bị cáo V đã lén lúc chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung S21 FE và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A51 có tổng giá trị 7.650.000đ.

Tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000đ ..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:” Do đó, Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 04/10/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Huỳnh Quốc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại để thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Trước, trong và sau khi phạm tội, bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vn bất chấp thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[2.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo đã tác động đến người thân bồi thường thiệt hại cho bị hại và có thái độ thành khẩn khai báo; bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[2.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân không tốt, đã 07 lần bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử về các tội “Trộm cắp tài sản”, “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”, “Sử dụng trái phép chất ma túy” và “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” và có 01 tiền sự vào ngày 11/11/2019 bị Tòa án nhân huyện U Minh đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng tại Quyết định số 11/QĐ-TA về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe và cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[3] Đối với Võ Hoàng G khi mua điện thoại không biết là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không đặt ra xử lý là phù hợp.

[4] Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 là tài sản của anh Đ và trong quá trình điều tra đã trả lại là phù hợp. 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave alpha màu xanh biển kiểm soát số 69B1-xxxxx là tài sản của bà H, bà không biết bị cáo sử dụng để phạm tội nên cần trả lại.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường, bà H không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền 4.750.000đ nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Quốc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Quốc V 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/7/2023.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho bà Huỳnh Thị Thu H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave alpha màu xanh biển kiểm soát số 69B1-xxxxx. (Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/10/2023).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Huỳnh Quốc V phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và bà Hồng có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và anh Giảm có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về