TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 22/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Hoàng Khắc H; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 04/5/1992; Nơi sinh: Thành phố V, tỉnh Nghệ An; Nơi thường trú: Không xác định; Nơi ở hiện tại: Số nhà A, ngõ 8, đường Nguyễn Phùng Thời, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Khắc Q và bà Trịnh Thị P; Vợ, con: Chưa; tiền sự : Không; tiền án: Bị cáo có 02 tiền án: Ngày 31/8/2015, bị TAND thành phố V, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 333/2015/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/5/2017. Ngày 05/10/2017, bị TAND thành phố V, tỉnh Nghệ An xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 402/2017/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 08/11/2019 nhưng phần án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và bồi thường dân sự của bản án bị cáo chưa thi hành; Nhân thân: Ngày 18/11/2008, bị UBND thành phố V, tỉnh Nghệ An ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng. Ngày 16/9/2011, bị TAND thành phố V, tỉnh Nghệ An xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 381/2011/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/12/2012. Ngày 18/5/2013, bị UBND thành phố V, tỉnh Nghệ An ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng, đã chấp hành xong vào ngày 21/3/2015; bị cáo bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 31/8/2022 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại:
+ Anh Nguyễn Thanh H; sinh năm: 1973; Địa chỉ: Thôn Kiều Thắng L, xã Đ, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
+ Anh Ngô Nhật C; sinh năm: 1974; Địa chỉ: Thôn Hồng Nh, xã G, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
+ Chị Nguyễn Thị Việt H; sinh năm: 1974; Địa chỉ: Thôn Thái Ph, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
+ Anh Trần Trường G; sinh năm: 1993; Địa chỉ: TDP Giang Th, thị trấn T, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
+ Anh Trần Tiến Y; sinh năm: 1958; Địa chỉ: Thôn Thái Ph, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
+ Anh Kiều Vĩnh Th; sinh năm: 1989; Địa chỉ: Thôn Trường L, xã Xuân Hải, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
+ Anh Phan Văn H; sinh năm: 1996; Địa chỉ: Thôn Bình Ph, xã Đ, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Nguyễn Văn C; sinh năm: 1986; Địa chỉ: Xóm Khánh Tr, xã N, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
+ Chị Ngô Thị Th; sinh năm: 1970; Địa chỉ: Phường Đông V, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Thu mua phế liệu; vắng mặt.
+ Anh Lê Văn G; sinh năm: 1988; Địa chỉ: Số nhà A đường Lý Thường Kiệt, khối 15, phường L, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Thu mua phế liệu; vắng mặt.
+ Anh Lương Xuân Th; Sinh năm: 1974; Địa chỉ: Số A đường Nguyễn Trường Tộ, khối Yên Duệ, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Thu mua phế liệu; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 04/7/2022, Hoàng Khắc H; sinh năm 1992; tạm trú tại phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Jupiter sơn màu xám bạc, mang biển kiểm soát 37L1- X (là xe của anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1986, trú tại xóm Khánh Tr, xã N, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An cho H mượn) đi từ phòng trọ ở thành phố V, tỉnh Nghệ An đến địa bàn huyện N, tỉnh Hà Tĩnh để trộm cắp tài sản. Khi đi đến ki ốt bán vật liệu xây dựng An Hiếu ở thôn Bình Phúc, xã Đ, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh do anh Phan Văn H, sinh năm 1996 làm chủ thấy một chiếc xe kéo (xe có khung được làm bằng các ống tuýp sắt hàn lại với nhau, dài khoảng 3m, rộng khoảng 1,2m, cao khoảng 70cm, có 02 bánh được làm từ bánh xe máy) của anh H dựng trước ki ốt. H liền đi lại lấy trộm chiếc xe kéo đó rồi điều khiển xe mô tô kéo theo xe kéo đi về đến khoảng 01 giờ 10 phút ngày 05/7/2022, H kéo chiếc xe kéo lấy trộm được nói trên về đến địa phận thôn An Tiên, xã G, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh thì bị lực lượng Công an xã G tuần tra phát hiện, yêu cầu về trụ sở để làm việc.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 06/KL- HĐĐGTS ngày 25/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện N kết luận: Chiếc xe kéo của anh Phan Văn H trị giá 500.000 đồng.
Với thủ đoạn tương tự như trên, trong thời gian từ ngày 06/6/2022 đến ngày 03/7/2022, H đã thực hiện 06 lần trộm cắp tài sản khác trên địa bàn huyện N, tỉnh Hà Tĩnh cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Vào khoảng 0 giờ ngày 06/6/2022, H điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 37L1- X đi từ thành phố V, tỉnh Nghệ An đến địa bàn thôn Hồng Nhất, xã G, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh lấy trộm một chiếc xe kéo (xe có khung được làm bằng các ống tuýp sắt hàn lại với nhau, dài khoảng 3m, rộng khoảng 1,2m, cao khoảng 70cm, hai bánh được làm từ bánh xe máy) của anh Ngô Nhật C, sinh năm 1974, trú tại thôn Hồng Nh, xã G, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh. H dùng xe mô tô kéo chiếc xe kéo đó về để ở khu đất trống cạnh khu trọ H ở tại phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Khoảng 7 giờ 30 phút cùng ngày, H bán chiếc xe kéo đó cho bà Ngô Thị Th, sinh năm 1970, trú tại xóm A, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An là người làm nghề thu mua phế liệu ở cùng dãy trọ với H với giá 450.000 đồng. Sau khi mua, bà Th đã đem bán chiếc xe kéo đó cho một người không quen biết, không rõ tên tuổi địa chỉ và không nhớ rõ bán được bao nhiêu tiền.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 06/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện N kết luận: Chiếc xe kéo của anh Ngô Nhật C trị giá là 500.000 đồng.
- Lần thứ hai: Khoảng hơn 0 giờ ngày 25/6/2022, H điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 37L1- X đi từ thành phố V, tỉnh Nghệ An đến cửa hàng buôn bán đồ hậu sự Cương Hà ở thôn Thái Ph, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh do chị Nguyễn Thị Việt H, sinh năm 1974 làm chủ, H lấy trộm một chiếc xe kéo (xe có khung được làm bằng các ống tuýp sắt hàn lại với nhau, dài khoảng 2m, rộng khoảng 80cm, cao khoảng 1m, có 02 bánh được làm từ bánh xe máy) của chị H dựng ở đối diện cửa hàng đưa về để ở khu đất trống cạnh khu trọ H ở tại phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Khoảng 7 giờ cùng ngày, H bán chiếc xe kéo đó cho bà Ngô Thị Th, sinh năm 1970, trú tại xóm A, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An là người làm nghề thu mua phế liệu ở cùng dãy trọ với H với giá 350.000 đồng. Sau khi mua, bà Th đã đem bán chiếc xe kéo đó cho một người không quen biết, không rõ tên tuổi địa chỉ và không nhớ rõ bán được bao nhiêu tiền.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 06/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện N kết luận: Chiếc xe kéo của chị Nguyễn Thị Việt H trị giá là 1.000.000 đồng.
- Lần thứ ba: Khoảng 0 giờ ngày 29/6/2022, H điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 37L1- X đi từ thành phố V, tỉnh Nghệ An đến cửa hàng in ấn quảng cáo T&G ở thôn Lam Thủy, xã G, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh do anh Trần Trường G, sinh năm 1993, trú tại TDP Giang Th, thị trấn T, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh làm chủ lấy trộm một chiếc xe kéo (xe có khung được làm bằng các ống tuýp sắt phi 27 hàn lại với nhau, dài khoảng 2,7m, rộng khoảng 1m, cao khoảng 80cm, có 02 bánh được làm từ bánh xe máy) của anh G dựng trước cửa hàng rồi kéo chiếc xe kéo về để ở khu đất trống cạnh khu trọ H ở tại phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Khoảng 7 giờ cùng ngày, H bán chiếc xe kéo đó cho bà Ngô Thị Th, sinh năm 1970, trú tại xóm A, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An là người làm nghề thu mua phế liệu ở cùng dãy trọ với H với giá 400.000 đồng. Sau khi mua, bà Th đã đem bán chiếc xe kéo đó cho một người không quen biết, không rõ tên tuổi địa chỉ và không nhớ rõ bán được bao nhiêu tiền.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 06/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện N kết luận: Chiếc xe kéo của anh Trần Trường G trị giá là 1.500.000 đồng.
- Lần thứ tư: Vào khoảng 0 giờ ngày 30/6/2022, H điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 37L1- X đi từ thành phố V, tỉnh Nghệ An đến nhà ông Trần Tiến Y, sinh năm 1958, trú tại thôn Thái Ph, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh lấy trộm một chiếc xe kéo (xe có khung được làm bằng các ống tuýp sắt hàn lại với nhau, dài khoảng 2,5m, rộng khoảng 1m, cao khoảng 70cm, có 02 bánh được làm từ bánh xe máy) của ông Y dựng ở trước cửa nhà rồi kéo về để ở khu đất trống cạnh khu trọ H ở tại phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Buổi sáng cùng ngày, H đưa chiếc xe kéo bán cho một ki ốt thu mua phế liệu không rõ tên, địa chỉ nằm trên đường đi từ thành phố V, tỉnh Nghệ An đến thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An với giá 400.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 06/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện N kết luận: Chiếc xe kéo của ông Trần Tiến Y trị giá là 500.000 đồng.
- Lần thứ năm: Vào khoảng 0 giờ ngày 02/7/2022, H điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 37L1- X đi từ thành phố V, tỉnh Nghệ An đến nhà anh Kiều Vĩnh Th, sinh năm 1989, trú tại thôn Trường L, xã Xuân Hải, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, H thấy chiếc xe kéo (xe có khung được làm bằng các ống tuýp sắt hàn lại với nhau, dài khoảng 3m, rộng khoảng 1m, cao khoảng 50cm, có 02 bánh được làm từ bánh xe máy) của anh Th dựng ở dưới mái tôn phía trước nhà rồi kéo chiếc xe kéo đó đưa về để ở khu đất trống cạnh khu trọ H ở tại phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Buổi sáng cùng ngày, H đưa đến ki ốt thu mua phế liệu của anh Lê Văn G, sinh năm 1988 ở phường Lê L, thành phố V, tỉnh Nghệ An bán được 600.000 đồng. Chiếc xe này sau khi vụ việc bị phát giác H đã đi chuộc lại giao nộp chơ Cơ quan điều tra.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 06/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện N kết luận: Chiếc xe kéo của anh Kiều Vĩnh Th trị giá là 1.000.000 đồng.
Lần thứ sáu: Khoảng 0 giờ ngày 03/7/2022, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Jupiter sơn màu xám bạc, mang biển kiểm soát 37L1- X đi từ phòng trọ ở thành phố V, tỉnh Nghệ An đến cửa hàng kinh doanh xây dựng Hòa Phát ở thôn Kiều Thắng L, xã Đ, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh do gia đình anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1974 làm chủ, H lấy trộm 01 chiếc xe kéo (xe có khung là bằng các ống tuýp sắt hàn lại với nhau, dài khoảng 3,5m, rộng khoảng 1,3m, cao khoảng 35cm, có 02 bánh được làm từ bánh xe máy) của anh H dựng trước cửa hàng, trên xe kéo có 08 tấm tôn (gồm 05 tấm tôn màu đen có kích thước 2,4 x 0,65 m, 03 tấm tôn màu đen có kích thước 1,2 x 0,65 m) rồi điều khiển xe mô tô kéo theo xe kéo đi về để ở mảnh đất trống cạnh khu trọ H ở tại phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, H đưa chiếc xe kéo cùng 08 tấm tôn lấy trộm được nói trên đến bán cho anh Lương Xuân Th, sinh năm 1974 làm nghề thu mua phế liệu ở khối Tân Duệ, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An được 800.000 đồng. Sau khi mua chiếc xe kéo cùng 08 tấm tôn nói trên, anh Lương Xuân Th đã dùng máy cắt để cắt nhỏ xe cùng các tấm tôn thành phế liệu rồi đem bán cho những người không quen biết, không rõ tên tuổi địa chỉ và không nhớ rõ bán được bao nhiêu tiền. Số tiền bán tài sản trộm cắp được H đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 06/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện N kết luận: Chiếc xe kéo cùng 08 tấm tôn của anh Nguyễn Thanh H có tổng trị giá là 3.800.000 đồng.
Toàn bộ số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) do bán tài sản trộm cắp được Hoàng Khắc H sử dụng để tiêu xài cá nhân hết.
Khi bán các chiếc xe kéo này cho người khác, Hoàng Khắc H đều nói với người mua là xe của bản thân cần tiền nên đem bán hoặc người khác nhờ đưa đi bán.
Kết quả trưng cầu giám định: Quá trình điều tra, do Hoàng Khắc H không có các giấy tờ tùy thân, không có lý lịch không rõ ràng nên Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã thu thập dấu vết đường vân tay của Hoàng Khắc H bằng cách lập chỉ bản (ký hiệu A) để in các dấu vết vân tay của H và thu thập danh chỉ bản (bản photocopy, ký hiệu M) số 0417 do Công an thành phố V, tỉnh Nghệ An lập ngày 10/7/2017 được lưu trữ tại hồ sơ số 8869AK18/403CN thuộc phòng Hồ sơ Công an tỉnh Nghệ An quản lý. Ngày 20/7/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện N ra quyết định trưng cầu giám định số 48 để trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh tiến hành giám định dấu vết đường vân để phục vụ việc chứng minh tiền án, tiền sự của Hoàng Khắc H. Tại bản kết luận giám định số 734/KL-KTHS ngày 28/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Dấu vân in tại các ô trên chỉ bản mang tên Hoàng Khắc H ký hiệu A so với các dấu vân in tại các ô tương ứng trên chỉ bản photocopy mang tên Hoàng Khắc H lập ngày 10/7/2017 ký hiệu M là của cùng một người.
Trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Thanh H yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 3.800.000 đồng; Người bị hại anh Ngô Nhật C yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 500.000 đồng; Người bị hại anh Nguyễn Thị Việt H yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 1.000.000 đồng; Người bị hại anh Trần Trường G yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 1.500.000 đồng; Người bị hại anh Trần Tiến Y yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 500.000 đồng. H chưa bồi thường cho các bị hại. Các bị hại Phan Văn H và Kiều Vĩnh Th đã nhận lại tài sản do Hoàng Khắc H chiếm đoạt nên không có yêu cầu gì về việc bồi thường dân sự;
Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu: 01 (một) chiếc xe kéo gồm các thanh tuýp sắt hàn lại với nhau, kích thước chiều dài khoảng 3m, chiều rộng khoảng 1,2m, chiều cao khoảng 70cm, xe đã qua sử dụng thu giữ từ Hoàng Khắc H đã trả cho chủ sở hữu là anh Phan Văn H; 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Jupiter sơn màu xám bạc đeo biển kiểm soát 37L1- X, xe có số máy: 5VT1- 36360, số khung: J5VT14YA- 036360, xe đã qua sử dụng, chất lượng bên trong không mở kiểm tra thu giữ từ Hoàng Khắc H đã trả cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn C; 01 (một) chiếc xe kéo được hàn từ các ống tuýp sắt lại với nhau, dài khoảng 3m, rộng khoảng 01m, cao khoảng 50cm, xe đã qua sử dụng do H tự nguyện giao nộp đã trả cho chủ sở hữu là anh Kiều Vĩnh Th.
Với hành vi trên, Cáo trạng số 31/CT –VKS-NX ngày 28/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Hoàng Khắc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên lời khai tại hồ sơ vụ án phản ánh nội dụng như lời trình bày của bị cáo và nội dung bản cáo trạng. Người bị hại Phan Văn H và Kiều Vĩnh Th đã nhận lại tài sản do Hoàng Khắc H chiếm đoạt nên không có yêu cầu gì về việc bồi thường dân sự; Người bị hại Nguyễn Thanh H, Ngô Nhật C, Nguyễn Thị Việt H, Trần Trường G, Trần Tiến Y yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự theo kết quả định giá.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Khắc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Hoàng Khắc H mức án từ 27 đến 30 tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 31/8/2022. Về Trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 588, 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo phải bồi thường cho các người bị hại tổng số tiền 7.300.000 đồng, cụ thể: Bồi thường cho anh Nguyễn Thanh H 3.800.000 đồng;
Bồi thường cho anh Ngô Nhật C 500.000 đồng; Bồi thường cho chị Nguyễn Thị Việt H 1.000.000 đồng; Bồi thường cho anh Trần Trường G 1.500.000 đồng; Bồi thường cho anh Trần Tiến Y 500.000 đồng. Về biện pháp tư pháp: Đề nghị truy thu từ bị cáo số tiền 3.000.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có để sung công quỹ Nhà nước. Ngoài ra còn đề xuất về án phí.
Bị cáo nói lời sau cùng thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo, người bị hại, người liên quan trong quá trình điều tra về thời gian, địa điểm, động cơ mục đích phạm tội, phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và các chứng cứ khác có tại hồ sơ, như vậy đủ cơ sở kết luận: Để có tiền têu xài cá nhân nên trong thời gian từ ngày 06/6/2022 đến ngày 05/7/2022, Hoàng Khắc H sinh năm 1992 trú tại phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An là người đã có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đã điều khiển xe mô tô BKS: 37L1- X (là xe của anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1986, trú tại xóm Khánh Trang, xã N, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An cho H mượn) đến địa bàn các xã G, Xuân Hải, Đ, X huyện N thực hiện 07 vụ trộm cắp cụ thể:
Lần thứ nhất: Khoảng 0 giờ ngày 06/6/2022 lấy trộm một chiếc xe kéo của anh Ngô Nhật C, sinh năm 1974, trú tại thôn Hồng Nhất, xã G, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh có trị giá 500.000 đồng.
Lần thứ hai: Khoảng 0 giờ ngày 25/6/2022, lấy trộm một chiếc xe kéo của chị Nguyễn Thị Việt H, sinh năm 1974 ở thôn Thái Phong, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh có giá trị 1.000.000 đồng.
Lần thứ ba: Khoảng 0 giờ ngày 29/6/2022, lấy trộm một chiếc xe kéo của Trần Trường G, sinh năm 1993, trú tại TDP Giang Thủy, thị trấn T, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh có giá trị 1.500.000 đồng Lần thứ tư: Khoảng 0 giờ ngày 30/6/2022, lấy trộm một chiếc xe kéo của ông Trần Tiến Y, sinh năm 1958, trú tại thôn Thái Phong, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh có giá trị 500.000 đồng Lần thứ năm: Khoảng 0 giờ ngày 02/7/2022, lấy trộm 01 chiếc xe kéo của anh Kiều Vĩnh Th, sinh năm 1989, trú tại thôn Trường Lam, xã Xuân Hải, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh có giá trị 1.000.000 đồng.
Lần thứ sáu: Khoảng 0 giờ ngày 03/7/2022, lấy trộm 01 chiếc xe kéo và 08 tấm tôn (gồm 05 tấm tôn màu đen có kích thước 2,4 x 0,65 m, 03 tấm tôn màu đen có kích thước 1,2 x 0,65 m) của anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1974 ở thôn Kiều Thắng Lợi, xã Đ, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh có giá trị 3.800.000 đồng.
Lần thứ bảy: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 04/7/2022 lấy trộm một chiếc xe kéo của anh Phan Văn H, sinh năm 1996 ở thôn Bình Phúc, xã Đ, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh có giá trị 500.000 đồng.
Số xe lấy trộm được H đem bán cho người khác được 3.000.000đ (Ba triệu đồng) đã sử dụng tiêu xài cá nhân hết.
[3] Hành vi của bị cáo Hoàng Khắc H lợi dụng sơ hở lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có tổng trị giá 8.800.000 đồng (Trong đó có 01 lần có giá trị trên 2 triệu đồng và 06 lần có giá trị dưới 02 triệu đồng); bị cáo thực hiện hành vi khi đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích lại phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Do đó việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.
[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[7] Trong vụ án có bà Ngô Thị Th, anh Lê Văn G và anh Lương Xuân Th là những người đã trực tiếp mua các tài sản là xe kéo và các tấm tôn do Hoàng Khắc H đem bán. Tuy nhiên, khi mua các tài sản này của H thì bà Th, anh G và anh Th đều không biết đó là tài sản do H trộm cắp mà có. Mặt khác đây là những tài sản tự chế thô sơ đã cũ, không có bất cứ giấy tờ hay chứng nhận gì để chứng minh quyền sở hữu, các đối tượng mua lại tài sản đều làm nghề thu mua phế liệu. Vì vậy hành vi của những người này không có dấu hiệu đồng phạm với H cũng như không có dấu hiệu phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy đinh tại điều 323 Bộ luật hình sự.
Anh Nguyễn Văn C là người đã cho Hoàng Khắc H mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Jupiter sơn màu xám bạc đeo biển kiểm soát 37L1- X là phương tiện mà H sử dụng đi trộm cắp tài sản nhưng quá trình điều tra xác định anh Cầu không biết việc H sử dụng chiếc xe mô tô trên để đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan CSĐT Công an huyện N không xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh Nguyễn Văn C là có căn cứ nên HĐXX không xem xét.
[8] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu trong quá trình điều tra là đúng quy định nên HĐXX không xem xét.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Phan Văn H và Kiều Vĩnh Th đã nhận lại tài sản do Hoàng Khắc H chiếm đoạt nên không có yêu cầu gì về việc bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về tài sản theo kết quả định giá cụ thể: Anh Nguyễn Thanh H yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 3.800.000 đồng; anh Ngô Nhật C yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 500.000 đồng; Chị Nguyễn Thị Việt H yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 1.000.000 đồng; anh Trần Trường G yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 1.500.000 đồng; anh Trần Tiến Y yêu cầu Hoàng Khắc H bồi thường dân sự với số tiền là 500.000 đồng. Xét thấy yêu cầu của những người bị hại là có căn cứ nên cần áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 588, 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại số tiền tương ứng với giá trị tài sản đã bị lấy trộm theo kết quả định giá tài sản.
[10] Về biện pháp tư pháp: Cần truy thu từ bị cáo số tiền 3.000.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có để sung công quỹ Nhà nước.
[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm;
bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về điều luật áp dụng: Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 38; điểm b khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 48; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 588, 589 Bộ luật dân sự; điểm b khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
2. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Khắc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
3. Về hình phạt chính: Xử phạt Hoàng Khắc H 27 (Hai mươi bảy) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 31/8/2022.
4. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Hoàng Khắc H bồi thường cho những người bị hại tổng số tiền 7.300.000 đồng, cụ thể: Bồi thường cho anh Nguyễn Thanh H 3.800.000 đồng; Bồi thường cho anh Ngô Nhật C 500.000 đồng; Bồi thường cho chị Nguyễn Thị Việt H 1.000.000 đồng; Bồi thường cho anh Trần Trường G 1.500.000 đồng; Bồi thường cho anh Trần Tiến Y 500.000 đồng.
5. Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo nộp số tiền 3.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.
6. Về án phí: Bị cáo Hoàng Khắc H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 365.000 (Ba trăm sáu mươi lăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
7. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2022/HS-ST
Số hiệu: | 29/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về