Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Trần Minh Q, sinh năm 1988; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Cụm x, xã X, huyện P, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lao động W do; họ tên bố: Trần Văn H, sinh năm 1960 (đã chết); họ tên mẹ: Trần Thị T, sinh năm 1961; gia đình bị cáo có hai chị em, bị cáo là con thứ hai; họ tên vợ: Đặng Thị K, sinh năm 1989; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: 01 tiền án: Bản án số 11/2020/HSST ngày 28/02/2020 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang, xử phạt Trần Minh Q 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2021, chưa được xóa án tích; nhân thân: Ngày 01/01/2008, Trần Minh Q bị Công an xã X, huyện P xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, đã hết thời hiệu; Bản án số 19/2010/HS-ST ngày 21/05/2010 của Toà án nhân dân huyện P, thành phố Hà Nội, xử phạt Trần Minh Q 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/08/2010, đã xóa án tích; Bản án số 82/2013/HS-ST ngày 09/04/2013 của Toà án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, xử phạt Trần Minh Q 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/01/2014, đã xóa án tích.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ ngày 11/11/2021 đến ngày 20/11/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Quang V, sinh năm 1993; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Tổ X, phường M, quận B, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 09/12; nghề nghiệp: Lao động W do; họ tên bố: Nguyễn Văn T, sinh năm 1968; họ tên mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; họ tên vợ: V Hằng N, sinh năm 1996; bị cáo có 01 con, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ ngày 11/11/2021 đến ngày 20/11/2021 hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N; trụ sở: Thôn kiêu K, xã Kiêu K, huyện K, thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Ông Đỗ Thế K; chức vụ: Giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Anh Tạ Thanh T, sinh năm 1982; đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm X, xã Hồng T, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Khu đô thị X, xã X, huyện K, thành phố Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M; trụ sở: Số 74 khu Cầu L, xã Nam H, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Ông Lê Văn T; chức vụ: Tổng giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Anh Phạm Gia W, sinh năm 1982; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn D, xã S, huyện V, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Tổ dân phố E, thị trấn Q, huyện K, thành phố Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/11/2021, Trần Minh Q, sinh năm 1988; trú tại: Cụm 6, xã X, huyện P, Hà Nội nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus có thuê bao 0961831497 gọi điện cho Nguyễn Quang V, sinh năm 1993; trú tại: Tổ 11, phường M, quận B, Hà Nội có số thuê bao 0974311993 rủ V đi trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu. V đồng ý. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, V điều khiển xe máy BKS: 32.186-K7 đến đón Q tại khu vực Tổ 8, phường M, quận B, Hà Nội và chở Q đến cửa hàng thu mua sắt vụn của chị Đỗ Thị Ngát, sinh năm 1971; có địa chỉ: Số 282 đường L, phường G, quận B, Hà Nội để lấy một chiếc xe kéo hai bánh do Q gửi trước đó. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 11/11/2021, khi Q điều khiển xe máy chở V ngồi sau kéo xe hai bánh đi đến sân Nhà văn hóa Tổ dân phố Đào Nguyên, thị trấn Q, huyện K, Hà Nội phát hiện có nhiều khung sắt đan thuộc sở hữu của Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N; địa chỉ: Thôn kiêu K, xã Kiêu K, huyện K, Hà Nội ủy quyền cho anh Tạ Thanh T, sinh năm 1982; trú tại: Khu đô thị X, K, Hà Nội quản lý. Q đỗ xe sát tường bên ngoài nhà văn hoá và bảo V trèo tường đi vào để lấy các khung sắt đưa qua tường rào cho Q đứng bên ngoài xếp lên xe hai bánh. Khi V chuyển cho Q được 105 phên khung sắt kim loại lên xe kéo hai bánh thì Q điều khiển xe máy chở V ngồi đằng sau kéo xe chở khung sắt đi về đến khu vực đường Q, thị trấn Q, K thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ gồm: 105 phên khung kim loại hình chữ nhật, đều có kích thước 95x50cm, trong đó mỗi một phên khung kim loại gồm 04 thanh kim loại tròn, trơn, đều có đường kính 8mm, dài 95cm, mỗi thanh nặng 0,41kg đã bẻ mỏ cong hai đầu và 07 thanh kim loại dạng xoắn, đều có đường kính 10mm, dài 50cm, nặng 0,28kg được đan buộc với nhau. Tổng khối lượng của 105 phên khung sắt kim loại là 378kg (Trong đó kim loại đường kính 8mm nặng 172,2kg, kim loại đường kính 10mm nặng 205,8kg).

Thu giữ của Trần Minh Q: 01 xe kéo hai bánh (xe bò kéo) đã cũ, qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus đã qua sử dụng màu vàng, bên trong có số sim 0961831497 và số tiền 11.100.000 đồng.

Thu giữ của Nguyễn Quang V: 01 chiếc xe máy kiểu dáng Dream, BKS: 32.186-K7 màu nâu, xe đã cũ, qua sử dụng, số khung C100MN 0218011, số máy C100MN E 0218011 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại màn hình cảm ứng, màu trắng vàng, đã cũ qua sử dụng, bên trong máy có lắp sim số 0974311993.

Ngày 11/11/2021, Cơ quan điều tra đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Quang V ở Tổ 11, phường M, B, Hà Nội. Qua khám xét không thu giữ được đồ vật tài liệu gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Qua điều tra, đấu tranh, Q và V khai nhận ngoài vụ việc trên còn thực hiện các vụ trộm khác như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 23 giờ ngày 06/11/2021, Q gọi điện rủ V đi trộm cắp tài sản. V đồng ý. V điều khiển xe máy BKS 32.186-K7 đến đón Q tại khu vực Tổ 8, phường M, quận B, Hà Nội và chở Q đến cửa hàng thu mua sắt vụn của chị Đỗ Thị Ngát để lấy xe kéo hai bánh trước đó Q gửi. Khoảng 01 giờ 30 ngày 07/11/2021, Q điều khiển xe máy chở V đi đến khu vực công trình xây dựng trước cổng Nhà văn hoá huyện K của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M do anh Phạm Gia W, sinh năm 1982; trú tại: Tổ dân phố E, thị trấn Q, huyện K được ủy quyền trông coi quản lý phát hiện thấy có nhiều đoạn sắt không có người trông giữ nên Q bảo V để Q đứng ngoài cảnh giới còn V đi vào lấy sắt sau chuyển lại cho Q để xếp lên xe. V lấy nhiều đoạn sắt dài khoảng 3m, đường kính khoảng 10mm và các đoạn sắt dài khoảng 2,5m, đường kính khoảng 12mm mang ra cho Q xếp lên xe kéo hai bánh. Sau khi trộm cắp được số tài sản trên Q và V mang bán tại cửa hàng thu mua sắt vụn của chị Đỗ Thị Ngát được 420kg sắt với số tiền 4.200.000 đồng, số tiền bán được sắt Q cầm 2.200.000 đồng và chia cho V 2.000.000 đồng. Q và V đã tiêu sái cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 07/11/2021, Q gọi điện rũ V trộm cắp tài sản tại công trình xây dựng trước cổng Nhà văn hoá huyện K, V đồng ý. Khoảng 01 giờ 30 ngày 08/11/2021, Q tiếp tục điều khiển xe máy của V chở V ngồi sau kéo xe bò đến khu vực công trình xây dựng trước cổng Nhà văn hoá huyện K, Q đứng ngoài cảnh giới còn V vào công trường và lấy các đoạn kim loại sắt dài khoảng 3m, đường kính khoảng 10mm và đoạn sắt dài khoảng 2,5m, đường kính khoảng 12mm ra cho Q xếp đầy lên xe kéo hai bánh. Khoảng 07 giờ ngày 07/11/2021, sau khi trộm cắp số tài sản trên Q và V mang bán tại cửa hàng thu mua sắt vụn của chị Đỗ Thị Ngát được 350kg sắt được số tiền 3.500.000 đồng, Q chia cho V 1.500.000 đồng, Q lấy 2.000.000 đồng. Số tiền trên Q và V đã tiêu sài cá nhân hết.

Vụ thứ ba: Khoảng 23 giờ ngày 08/11/2021, Q tiếp tục rủ V trộm cắp tại công trình xây dựng trước cổng Nhà văn hoá huyện K, V đồng ý. Q tiếp tục điều khiển xe máy chở V ngồi sau kéo xe kéo hai bánh đến khu vực công trình xây dựng trước cổng Nhà văn hoá huyện K, Q đứng ngoài cảnh giới còn V đi vào công trường và lấy các đoạn sắt dài khoảng 3m, đường kính khoảng 10mm và các đoạn sắt dài khoảng 2,5m, đường kính khoảng 12mm ra cho Q xếp lên xe kéo. Khoảng 08 giờ ngày 09/11/2021, sau khi trộm cắp số tài sản trên Q và V mang bán tại cửa hàng thu mua sắt vụn của chị Đỗ Thị Ngát được 410kg sắt được số tiền 4.100.000 đồng, Q chia cho V 2.000.000 đồng, Q lấy 2.100.000 đồng. Số tiền trên Q và V đã tiêu sài cá nhân hết.

Đến ngày 11/11/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã bắt khẩn cấp đối với Trần Minh Q và Nguyễn Quang V.

Tại Kết luận định giá tài sản số 200/KL-HĐĐGTS ngày 18/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận:

- 105 khung đan cốt thép có cùng đặc điểm: màu nâu xám, gồm 04 đoạn thép phi 8 tròn trơn dài 95cm, khối lượng 1,64kg và 07 đoạn thép xoắn phi 10 dài 50cm, khối lượng 1,96kg được đan với nhau thành các khung cốt thép hình chữ nhật kích thước (95x50)cm, mỗi khung thép có khối lượng 3,6kg, có tổng khối lượng là 378kg, loại thép Việt Đức, chưa qua sử dụng, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 11/11/2021 có trị giá 6.900.012 đồng.

- 210 đoạn thép xoắn phi 10 màu nâu xám, mỗi đoạn dài 3m có khối lượng 1,85kg, tổng khối lượng là 388,5kg, loại thép Việt Đức, chưa qua sử dụng, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07,8,9/11/2021 có trị giá 6.798.750 đồng.

- 360 đoạn thép xoắn phi 12 màu nâu xám, mỗi đoạn thép dài 2,5m có khối lượng 2,2kg, tổng khối lượng là 792kg, loại thép Việt Đức, chưa qua sử dụng, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07,8,9/2021 có trị giá 13.860.000 đồng.

Đối với chiếc xe máy kiểu dáng Dream, BKS: 32.186-K7 màu nâu, xe đã cũ, qua sử dụng, số khung C100MN 0218011, số máy C100MN E 0218011 thu giữ của bị cáo Nguyễn Quang V. Quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của ông V Văn Định, sinh năm 1961; ĐKHKTT: Tổ 7, B, Hà Nội (là bố vợ của bị cáo V). Việc bị cáo V mượn xe máy để sử dụng đi trộm cắp tài sản công Định không biết. Ngày 05/01/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã quyết định xử lý vật chứng trả chiếc xe máy trên cho ông Định.

Đối với chị Đỗ Thị Ngát, khi thu mua sắt của Q và V không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có và đã bán số sắt thu mua được cho một người đàn ông không rõ nhân thân nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện K không có căn cứ xử lý.

Đối với 01 xe kéo hai bánh (xe bò kéo) đã cũ, qua sử dụng; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus đã qua sử dụng màu vàng, bên trong có số sim 0961831497 thu giữ của bị cáo Trần Minh Q và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại màn hình cảm ứng, màu trắng vàng, đã cũ qua sử dụng, bên trong máy có lắp sim số 0974311993 thu giữ của bị cáo V liên quan hành vi phạm tội.

Đối với số tiền 11.100.000 đồng thu giữ của bị cáo Q, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự:

Ngày 14/12/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã trao trả 105 khung sắt đan cho Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N; Công ty đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Bị hại là Công ty cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M không yêu cầu bị cáo Trần Minh Q và Nguyễn Quang V phải bồi thường về dân sự.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, Trần Minh Q và Nguyễn Quang V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 02/CT-VKSGL ngày 14 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố các bị cáo Trần Minh Q và Nguyễn Quang V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo Q cho rằng chỉ sử dụng điện thoại di động để rủ bị cáo V đến phòng mình chơi chứ không sử dụng điện thoại di động để liên lạc rủ bị cáo V đi trộm cắp tài sản. Ban đầu bị cáo V cũng cho rằng bị cáo Q sử dụng điện thoại di động để rủ bị cáo đến phòng mình chơi chứ không sử dụng điện thoại di động liên lạc để rủ bị cáo đi trộm cắp tài sản nhưng sau đó bị cáo V thừa nhận bị cáo Q sử dụng điện thoại di động để liên lạc rủ bị cáo đi trộm cắp tài sản. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của bị hại Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N là anh Tạ Thanh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó có đơn trình bầy: Giữ nguyên toàn bộ lời trình bầy trước đây tại Cơ quan điều tra; về trách nhiệm dân sự: Công ty đã nhận lại tài sản, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì về dân sự.

Người đại diện hợp pháp của bị hại Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M là anh Phạm Gia W vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó có đơn trình bầy: Giữ nguyên toàn bộ lời trình bầy trước đây tại Cơ quan điều tra; về trách nhiệm dân sự: Công ty không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì về dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhận định về lời khai của đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Minh Q từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Q.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Quang V từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ ngày 11/11/2021 đến ngày 20/11/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo V.

Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N và Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự của các bị cáo nên không xét.

Về xử lý vật chứng:

Lời khai của bị cáo Q cho rằng chỉ sử dụng điện thoại di động để rủ bị cáo V đến phòng mình chơi chứ không sử dụng điện thoại di động liên lạc để rủ bị cáo V đi trộm cắp tài sản không phù hợp với Bản W khai, các lời khai ban đầu của bị cáo, lời khai của bị cáo V cũng như thực tế diễn biến của hành vi phạm tội của các bị cáo nên không có cơ sở để chấp nhận.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 01 xe kéo loại hai bánh (xe bò), đã qua sử dụng thu giữ của các bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu vàng, bên trong gắn số sim 0961831497, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Q; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu trắng, bên trong gắn số sim 0974311993, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo V; hoàn trả bị cáo Q số tiền 11.100.000 đồng đồng thu giữ của bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã trao trả chiếc xe máy kiểu dáng Dream, BKS: 32.186-K7 màu nâu, xe đã cũ, qua sử dụng, số khung C100MN 0218011, số máy C100MN E 0218011 thu giữ của bị cáo Nguyễn Quang V cho ông V Văn Định là phù hợp quy định của pháp luật.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, người bào chữa, các bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình W, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại là Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N và Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N và Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N và Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Trong các ngày 07/11/2021, 08/11/2021 và ngày 09/11/2021, tại tổ dân phố E, thị trấn Q, K, Hà Nội, các bị cáo Trần Minh Q và Nguyễn Quang V đã có hành vi trộm cắp 210 đoạn thép xoắn phi 10 màu nâu xám, mỗi đoạn dài 3m, khối lượng là 388,5kg, loại thép Việt Đức, chưa qua sử dụng, có trị giá 6.798.750 đồng và 360 đoạn thép xoắn phi 12 màu nâu xám, mỗi đoạn thép dài 2,5m, tổng khối lượng là 792kg, loại thép Việt Đức, chưa qua sử dụng, có trị giá 13.860.000 đồng của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 11/11/2021, tại Nhà văn hóa tổ dân phố Đào Nguyên, thị trấn Q, huyện K, Hà Nội, bị cáo Trần Minh Q và Nguyễn Quang V đã có hành vi trộm cắp 105 khung sắt đan, có trị giá 6.900.012 đồng của Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N. Tổng giá trị tài sản các bị cáo Trần Minh Q và Nguyễn Quang V chiếm đoạt là 27.558.762 đồng. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của tổ chức nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và gây mất trật W trị an tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả gây ra nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với động cơ vụ lợi cá nhân.

[4.2] Về đồng phạm: Đây là một vụ án hình sự mang tính chất đồng phạm giản đơn do hai bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm, trong đó: Trần Minh Q là người khởi xướng; Nguyễn Quang V là người thực hành tích cực. Nên các bị cáo cùng phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình đã gây ra và cùng phải chịu một chế tài do điều luật đó quy định, song về nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự liên quan đến bị cáo nào thì áp dụng đối với riêng bị cáo đó.

[4.3] Về nhân thân các bị cáo:

Bị cáo Q đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản vào 2008 và bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” vào các năm 2010, 2013 và năm 2020, nhưng trong thời gian thử thách lại tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục phạm tội.

Bị cáo V có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[4.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo Q và bị cáo V có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4.5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Q và bị cáo V bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án số 11/2020/HSST ngày 28/02/2020 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang, xử phạt Trần Minh Q 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2021, chưa được xóa án tích, bị cáo lại phạm tội mới với lỗi cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, bị cáo Q bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy: Cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên toà thể hiện: Các bị cáo là lao động W do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với 01 xe kéo loại hai bánh (xe bò), đã qua sử dụng thu giữ của các bị cáo là phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội nhưng giá trị sử dụng không đáng kể nên cần tịch thu, tiêu huỷ.

Lời khai của bị cáo Q cho rằng chỉ sử dụng điện thoại di động để rủ bị cáo V đến phòng mình chơi chứ không sử dụng điện thoại di động liên lạc để rủ bị cáo V đi trộm cắp tài sản không phù hợp với Bản W khai, các lời khai ban đầu của bị cáo, lời khai của bị cáo V cũng như thực tế diễn biến hành vi phạm tội của các bị cáo nên không có cơ sở để chấp nhận. Như vậy, lời khai ban đầu của các bị cáo về việc bị cáo Q sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu vàng, bên trong gắn số sim 0961831497 của bị cáo liên lạc với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu trắng, bên trong gắn số sim 0974311993 của bị cáo V để rủ bị cáo V đi trộm cắp tài sản là có cơ sở. Do hai chiếc điện thoại này là phương tiện liên lạc giữa các bị cáo để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 11.100.000 đồng thu giữ của bị cáo Q không liên quan đến hành vi phạm tội nên hoàn trả lại cho bị cáo Q nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã trao trả chiếc xe máy kiểu dáng Dream, BKS: 32.186-K7 màu nâu, xe đã cũ, qua sử dụng, số khung C100MN 0218011, số máy C100MN E 0218011 thu giữ của bị cáo Nguyễn Quang V cho ông V Văn Định, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với số tiền có được do bán tài sản trộm cắp cho chị Ngát và các bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết. Nay bị hại là Công ty cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử cũng không buộc các bị cáo phải truy nộp số tiền 11.800.000 đồng có được từ việc bán tài sản do trộm cắp mà có theo tinh thần hướng dẫn tại mục 3 Công văn số 233/TANDTC-PC ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân tối cao.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N và Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự của các bị cáo Hội đồng xét xử không xét; nếu có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác khi bị hại có yêu cầu và đảm bảo điều kiện theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Minh Q và Nguyễn Quang V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10] Về các nội dung khác:

Đối với chị Đỗ Thị Ngát, khi thu mua sắt của Q và V không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Minh Q và Nguyễn Quang V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Minh Q 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2021.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Q.

2.3. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Quang V 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ ngày 11/11/2021 đến ngày 20/11/2021.

2.4. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo V.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu và tiêu huỷ: 01 xe kéo loại hai bánh (xe bò), đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Q;

3.2. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu vàng, bên trong gắn số sim 0961831497, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Q;

3.3. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu trắng, bên trong gắn số sim 0974311993, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo V.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 25/01/2022).

3.4. Hoàn trả bị cáo Trần Minh Q số tiền 11.100.000 đồng, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Số tiền 11.100.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2020/0054888 ngày 25/01/2022).

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N và Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự của các bị cáo Hội đồng xét xử không xét; nếu có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác khi bị hại có yêu cầu và đảm bảo điều kiện theo quy định của pháp luật.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo, Bị cáo Trần Minh Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Quang V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại là Công ty TNHH tư vấn đầu tư công trình N và Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển xây dựng M vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về