Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THÁI HOÀ - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thị xã Thái Hòa - tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2022/HSST ngày 06 tháng 5 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2022, quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/HSST-QĐ ngày 07/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê C L; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 26 tháng 03 năm 1992 tại huyện N Đ, tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm X, xã N T, huyện N Đ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê C V, sinh năm 1956 và Con bà: Nguyễn T K - Sinh năm: 1958; vợ, con: Chưa có;

Tiền án: Ngày 15/3/2013, bị TAND huyện N Đ, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/12/2014. Hình phạt bổ sung 6.000.000đ chưa thi hành.

Nhân thân: Ngày 24/01/2011, bị TAND huyện T K, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã chấp hành xong hình phạt ngày 03/3/2011.

Bị cáo Lê C L bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/2/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Hoàng V K, sinh năm 1998.

Trú tại: Xóm P, xã TH, thị xã TH, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Ngƣời làm chứng:

Chị Trần Thị M, sinh năm 1995. Vắng mặt.

Trú tại: Khối T, phường H, thị xã T H, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 31/11/2021, Lê C L đi xe máy đến quán Game S ở khu vực xóm H, xã T H, thị xã T H để chơi game. L ngồi chơi tại quán đến 02 giờ 30 phút ngày 01/11/2021 thì ra về. Lúc này, L phát hiện tại ghế nằm của anh Hoàng V K chủ quán game có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13Pro Max màu xanh nên L nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên để bán lấy tiền tiêu xài. L quan sát một lúc thấy anh K đang ngủ và mọi người xung quanh không chú ý. Nên L đã lén lút lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần phía trước bên trái L đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về nhà. Đến khoảng 5 giờ 10 phút, L gọi taxi đến đón mình tại nhà và đi đến khu vực khu vực xóm Đ, xã T H, thị xã TH, tại đây L đón xe bus chạy tuyến T - V. Đến khoảng 05 giờ 40 phút, khi xe bus chạy trên quốc lộ 48 đến khu vực thuộc xã N, thị xã T H, L quan sát thấy một cửa hàng bán điện thoại phía bên trái quốc lộ 48 (theo hướng Q- V) thì L xuống xe với mục đích bán chiếc điện thoại mà L vừa trộm cắp được của anh K. Lê C L chờ đến khoảng 07 giờ cùng ngày thì quán mở cửa. Tại đây L đã bán chiếc điện thoại trên cho 01 người đàn ông chủ quán điện thoại với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Bán điện thoại xong L tiếp tục đón xe bus đi xuống khu vực ngã ba Y thuộc xã D, huyện C, tỉnh Nghệ An rồi tiếp tục đón xe khách đi ra khu công nghiệp Đ T, huyện V T, tỉnh Bắc Giang làm việc. Đến ngày 15/02/2022, nhận thấy hành vi của mình là trái pháp luật và sẽ bị phát hiện, nên L đã đến cơ quan Công an thị xã Thái Hòa đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ vào bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 23/02/2022 thì Hội đồng định giá UBND thị xã TH kết luận: chiếc điện thoại Iphone 13 Pro Max 128 GB, màu xanh được mua vào tháng 10/2021 (đã qua sử dụng) của anh Hoàng V K trị giá 31.500.000đ (Ba mươi mốt triệu, năm trăm ngìn đồng).

Quá trình điều tra L khai nhận bán chiếc điện thoại trộm cắp của anh K ở khu vực xã N, thị xã T H nhưng không nhớ cụ thể ở địa điểm nào. Nên cơ quan điều tra không thu giữ được chiếc điện thoại trên.

Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 06/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thái Hoà đã truy tố bị cáo Lê C L về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Thái Hoà giữ nguyên quan điểm như đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2, Điều 173; Điều 38; Điểm s, b khoản 1, Điều 51; Khoản 2 Điều 51- Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Lê C L phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Đề nghị xử phạt Lê C L từ 27 tháng đến 30 tháng tù. Bị hại không yêu cầu về bồi thường dân sự nên không xem xét, đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: “Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thái Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Thái hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, từ đó xác định được: Vào khoảng 02 giờ 30 ngày 01/11/2022, tại quán Game S thuộc khu vực xóm N, xã T H, thị xã TH, Lê C L đã có hành vi trộm cắp tài sản của anh Hoàng V K một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max màu xanh, trị giá 31.500.000đ Đến ngày 15/02/2022, nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Lê C L đã đến cơ quan cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thái Hòa xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 01/KLĐG ngày 23/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản UBND thị xã TH xác định: Chiếc điện thoại Iphone 13 Pro max 128 GB, màu xanh, được mua vào tháng 10/2021, đã qua sử dụng có giá trị là 31.500.000 đồng.

[3] Xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như nhân thân của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, về nhân thân của bị cáo:

Tại bản án số 08/2011/HSST ngày 24/01/2011, bị cáo Lê C L bị TAND huyện T, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt vào ngày 03/3/2011.

Ngày 25/9/2012, Linh lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khi chưa được xóa án tích nên tái phạm và tại bản án số hình sự số 12/2013/HSST ngày 15/3/2013, Lê Công Linh bị TAND huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Lê C L đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/12/2014. Tuy nhiên đối với hình phạt bổ sung 6.000.000đ (phần bồi thường cho người bị hại ) thì bị cáo L chưa thi hành đối với khoản tiền trên. Vì vậy bị cáo chưa được xóa án tích.

Do bị cáo đã tái phạm và chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo Lê C L được xác định là tái phạm nguy hiểm. Vì vậy Lê C L đã phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, bị cáo thật thà khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật; bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại; Cha mẹ của bị cáo là người có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật Hình sự. Nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây tâm lý hoang mang cho người dân trong việc quản lý tài sản của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần xét xử nghiêm khắc. Đây là lần thứ 3 bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, tài sản bị cáo chiếm đoạt có trị giá 31.500.000đ. Vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo và gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Người bị hại anh Hoàng V K không yêu cầu bị cáo L phải bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay xét thấy bị cáo có thu nhập không ổn định, không có tài sản gì đáng kể nên miễn phạt bổ sung cho bị cáo là phù hợp.

-Biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS truy thu tại bị cáo Lê C L số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Đây là số tiền L thu lợi bất chính do bán điện thoại mà có.

- Về án phí : Cần buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm g khoản 2, Điều 173; Điều 38; Điểm b, s khoản 1, Điều 51; Khoản 2 Điều 51- Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lê C L phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Lê C L 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 02 năm 2022.

- Biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự truy thu tại bị cáo Lê C L số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Đây là số tiền L thu lợi bất chính do bán điện thoại mà có.

Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án (kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án). Buộc bị cáo Lê C L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ an trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, vắng mặt bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ an trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Thái Hòa - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về