TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Mỹ P, sinh năm 1984 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi cư trú: Tổ 10, ấp N, xã H, thành phố Bà, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn K; Mẹ: Đỗ Thị T; Bị cáo có chồng là Lê Huy H (đã ly hôn) và 04 con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền sự: Không Tiền án (01): Tại Bản án số 59/2018/HSST ngày 20-11-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa xử phạt bị cáo 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Nhân thân:
+ Tại Quyết định số 897/QĐ ngày 07-8-2017 của Công an phường Long Tâm, thành phố Bà Rịa xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
+ Tại Quyết định số 362/QĐ ngày 27-3-2018 của Công an xã Long Phước, thành phố Bà Rịa xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Hiện bị cáo đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu theo Quyết định thi hành án phạt tù số 96/2018/QĐ-CA ngày 24-12- 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa (có mặt).
- Bị hại: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 10, ấp P, xã L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1999 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 14, ấp B, xã H, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1976 ( vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 5, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
3. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1981 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 588/15 đường T, phường 5, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4. Chị Võ Thị Kim N, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 86/33/14 đường N, phường 7, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 40 phút ngày 24-12-2019, Nguyễn Thị Mỹ P điều khiển xe mô tô hiệu Attila màu bạc, biển kiểm soát 72F8-X đến chợ H thì gặp Nguyễn Anh T đang đi bộ và T đã nhờ P chở về nhà ngoại T ở xã L, huyện Đ. P đồng ý và chở T đi từ chợ H hướng về huyện L sang Hương lộ 8 thuộc ấp P, xã L, thành phố B. Khi đi ngang nhà anh Nguyễn Văn Q thuộc tổ 10, ấp P, P nhìn thấy trước nhà anh Q có để một cuộn lưới B40, nhà không có cổng rào, không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm và rủ T cùng thực hiện để P có tiền mua sữa cho con và mua vé số về bán thì được T đồng ý. Sau đó P chở T quay lại nhà anh Q, dựng xe phía ngoài rồi cả hai vào bên trong lăn cuộn lưới B40 ra ngoài và khiêng lên yên xe Attila, P chở T ngồi sau ôm cuộn lưới rồi chạy đi tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an xã L phát hiện bắt giữ P, còn T nhảy xuống xe chạy thoát.
* Tại Kết luận định giá tài sản số 08/KL-HĐĐGTS ngày 10-02-2020 xác định: 01 (một) cuộn lưới B40 bằng kim loại, lưới khổ 1,5m, nặng 54kg có trị giá 918.000 đồng.
* Bản Cáo trạng số 30/CT-VKSBR ngày 22-4-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa truy tố Nguyễn Thị Mỹ P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
* Quan điểm luận tội của Kiểm sát viên:
Giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với Nguyễn Thị Mỹ P đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Về mức hình phạt: Áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo P từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
Căn cứ vào Điều 56 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HSST ngày 21-4- 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ.
Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự Giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tạm giữ một biển kiểm soát 72F8-X để xử lý theo thẩm quyền.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn Tr 01 (một) giấy đăng ký mô tô, xe máy Fashion, số 0031950 mang tên Phạm Ngọc P.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila, số khung RLGH125ED6D475048, số máy VMM9BBD475048 .
* Lời khai của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bà Rịa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa, của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:
Tại phiên tòa bị cáo P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Từ đó, đã xác định được: Khoảng 7 giờ 40 phút ngày 24-12-2019, tại ấp P, xã L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm của anh Nguyễn Văn Q 01 (một) cuộn lưới B40 bằng kim loại có trị giá 918.000 đồng.
Xét mặc dù tài sản bị cáo chiếm đoạt được có trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng do trước đó bị cáo đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa đã truy tố.
Do đó, đủ cơ sở kết luận hành vi của Nguyễn Thị Mỹ P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:
Hành vi phạm tội của bị cáo P là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Mặt khác, trong các năm 2017, 2018 bị cáo liên tiếp bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản và lần phạm tội này lại được diễn ra trong thời gian bị cáo đang tạm hoãn chấp hành hình phạt tù theo Bản án số 59/2018/HSST ngày 20-11-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa. Điều đó đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, đối với bị cáo cần phải có một mức hình phạt tù thật nghiêm khắc để nhằm răn đe, giáo dục đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng:
Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại nên chưa gây thiệt hại. Do đó, bị cáo được áp dụng điểm h, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại không yêu cầu nên không giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng:
Đối với tài sản chiếm đoạt đã được trả lại cho bị hại nên đã giải quyết xong.
Đối với một biển kiểm soát 72F8-X qua xác minh thì đây là biển kiểm soát của chiếc xe máy hiệu Fashion thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Tr và chiếc xe đã bị mất trộm vào năm 2018. Do đó, cần giao lại biển kiểm soát 72F8-X nêu trên cho Công an thành phố Bà Rịa tạm giữ để xử lý theo thẩm quyền.
Đối với 01 (một) giấy đăng ký mô tô, xe máy Fashion, số 0031950 mang tên Phạm Ngọc P do ông Tr giao nộp không liên quan đến vụ án nên trả lại cho ông Tr.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila, số khung RLGH125ED6D475048, số máy VMM9BBD475048 qua xác minh trước đây thuộc quyền sở hữu của chị Võ Thị Kim N và chị N đã bán lại chiếc xe trên cho anh Nguyễn Văn H vào năm 2019. Trong quá trình sử dụng anh H đã cho người bạn tên P (không rõ tên tuổi, địa chỉ) mượn xe để đi lại nhưng sau đó không trả. Xét ngoài lời khai của anh H thì hiện nay cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bà Rịa không xác minh được người đàn ông tên P. Mặt khác, theo bị cáo khai nhận thì bị cáo mua lại chiếc xe trên từ một tiệm ve chai ở huyện Đ và ngày 24-12-2019 bị cáo đã sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội. Do đó, cần tịch thu sung ngân sách nhà nước chiếc xe nêu trên là phù hợp. Riêng đối với anh H có quyền khởi kiện đối với anh P để đòi lại tài sản cho mượn theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng.
[9] Đối với Nguyễn Anh T tham gia cùng bị cáo lấy trộm tài sản của anh Q. Tuy nhiên do giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng và T cũng chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về các tội chiếm đoạt tài sản nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bà Rịa ra quyết định xử phạt hành chính là đúng quy định của pháp luật.
[10] Xét tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HSST ngày 21-4-2020 của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tổng hợp với hình phạt tại Bản án số 59/2018/HSST ngày 20-11-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa và quyết định xử phạt bị cáo 02 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Nguyễn Thị Mỹ P không kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HSST ngày 21-4-2020 của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ và bản án này cũng không bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên phần Quyết định của Bản án đối với bị cáo P đã có hiệu lực pháp luật, do đó khi quyết định hình phạt thì cần căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt của hai bản án đối với bị cáo là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Nguyễn Thị Mỹ P phạm tội “Trộm cắp tài sản” Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Thị Mỹ P 01 (một) năm tù.
Căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HSST ngày 21 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ buộc Nguyễn Thị Mỹ P phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án 13-01- 2020.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tạm giữ một biển kiểm soát 72F8-X để xử lý theo thẩm quyền.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn Tr 01 (một) giấy đăng ký mô tô, xe máy Fashion, số 0031950 mang tên Phạm Ngọc P.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila, số khung RLGH125ED6D475048, số máy VMM9BBD475048.
Toàn bộ tài sản và vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bà Rịa đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số 50 ngày 22-4-2020.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Nguyễn Thị Mỹ P phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28-5-2020) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm (đối với người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai).
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2020/HS-ST
Số hiệu: | 28/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về