Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 27/2023/HS-ST NGÀY 20/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 4 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai, theo thụ tục thông thường vụ án hình sự thụ lý số 14/2023/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2023/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Thái H; tên gọi khác: Không; sinh năm 1982 tại Lâm Đồng.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn 6, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thái D, sinh năm 1955 và bà Trương Thị D, sinh năm 1959; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1983 (đã ly hôn); con: có 03 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án: Tại bản án số 112/2017/HSSTcủa Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xử phạt Thái H 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS, chấp hành xong bản án ngày 21/5/2018; Tại bản án số 33/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt Thái H 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/4/2020, ngày 30/7/2020 H đã nộp xong án phí HSST, ngày 08/02/2022 H chấp hành xong hình phạt tù. Tính đến ngày 14/12/2022 H chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 37/QĐ-XPVPHC ngày 21/3/2018 của Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 3.000.000 đồng về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Trộm cắp tài sản, Thái H chưa chấp hành nộp phạt.

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 14/12/2022. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

+ Người bị hại:

Anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1998 (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt). Địa chỉ: Xóm 4, thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Công T, sinh năm 1982 (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt). Địa chỉ: Số 68 P, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thái H vừa chấp hành xong hình phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” vào ngày 08/02/2022, chưa được xóa án tích. Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 14/12/2022, H đi bộ từ nhà tại thôn 6, xã L, huyện B tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài và mua rượu uống. Khi đến nhà anh Nguyễn Thanh P (sinh 1998; cư trú: Thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng) thấy trước sân nhà có xe máy hiệu LiFan màu nâu, biển kiểm soát 47L4 -51xx, trên cổ xe có cắm chìa khóa, nhà không có cổng nên vào lấy trộm xe máy đi ra khỏi cổng rồi nổ máy bỏ chạy về hướng huyện Di Linh. Khi đến thôn P, xã Đ, huyện D, H vào tiệm thu mua phế liệu của anh Nguyễn Công T (Sn: 1982, NKTT: P, xã Đ, huyện D), cân xe lên được 72kg bán được 600.000 đồng. Bán xong, H bắt xe buýt đi về nhà hết 45.000 đồng, mua rượu, đồ ăn và 01 gói thuốc ngựa đỏ tổng cộng hết 160.000 đồng, còn lại 440.000 đồng H cất giữ trong người. Còn anh Phước khi phát hiện mất xe đã xem camera của gia đình biết H lấy trộm xe của mình nên đến Công an xã Lộc An trình báo. Công an xã Lộc An đã mời H lên làm việc thì H thừa nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp số tiền còn lại là 440.000 đồng. Ngoài ra, Công an xã Lộc An còn thu giữ và chuyển cho Công an huyện Bảo Lâm: 01 xe máy hiệu LiFan màu nâu, biển kiểm soát 47L4-51xx; 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi phạm tội của H.

Tại Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 14/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố hình tụng hình sự huyện Bảo Lâm kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Lifan, biển số: 47L4-51xx, số khung: 013DL001xxx, số máy: 30025xxx, xe không có giàn yếm (dàn nhựa xe) có giá trị là 2.400.000 đồng.

Về tang vật: Cơ quan CSĐT Công an huyện Bảo Lâm đã trả lại xe máy nhãn hiệu Lifan, biển số: 47L4-51xx cho anh Nguyễn Thanh P (xe anh Phước mua tại cửa hàng xe gắn máy Văn Khoa, địa chỉ: Thôn 3, xã L, huyện B, chưa sang tên, xe này của anh Nguyễn Trọng T, Sn; 1964, B.R, O, EaKar, Đắk Lắk, bán lại năm 2016). Đối với số tiền 440.000 đồng đang được tạm giữ tại tài khoản tạm giữ Công an huyện Bảo Lâm. Đối với 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi phạm tội của Thái H lưu theo hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Thanh P đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Công T không yêu cầu bị cáo Thái H phải trả lại số tiền 600.000 đồng đã đưa cho bị cáo khi mua xe máy.

Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Tại Bản cáo trạng số 21/CT-VKSBL ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Thái H về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm giữ quyền công tố luận tội và tranh luận. Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị tuyên bố bị cáo Thái H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Thái H từ 03 năm tù đến 04 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/12/2022. Về trách nhiệm dân sự anh Nguyễn Thanh P đã nhận lại tài sản của mình và không yêu cầu gì thêm, anh Nguyễn Công T không yêu cầu bị cáo H trả lại số tiền 600.000 đồng nên không đề cập đến. Về xử lý vật chứng Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm đã trả lại 01 xe gắn máy nhãn hiệu Lifan, biển số: 47L4-51xx cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Thanh P xong, tịch thu và sung ngân sách Nhà nước số tiền 440.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có (đã được chuyển vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm), đối với 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi phạm tội của Thái H lưu theo hồ sơ vụ án. Về án phí buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

+ Bị cáo Thái H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm đã truy tố. Lời khai của bị cáo trùng khớp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù hợp với toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

+ Chủ tọa công bố lời khai của người bị hại anh Nguyễn Thanh P khai trùng khớp lời khai của bị cáo và các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã nhận lại tài sản của mình và không yêu cầu gì thêm.

+ Chủ tọa công bố lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Công T khai trùng khớp với lời khai của bị cáo và các tài liệu trong hồ sơ vụ án, không yêu cầu bị cáo H trả lại số tiền 600.000 đồng đã đưa cho bị cáo khi thu mua xe máy.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhận thức được hành vi phạm tội là sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo Thái H thể hiện:

Thái H là đối tượng nghiện rượu, không có nghề nghiệp ổn định, đã có hai tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, có 01 tiền sự về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản nhưng chưa thi hành quyết định xử phạt. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, về lại địa phương sinh sống, H không ăn năn, sửa chữa, lo làm ăn mà tiếp tục thực hiện trộm cắp tài sản của người khác để lấy tiền tiêu xài cá nhân, mua rượu uống, cụ thể như sau: Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 14/12/2022, H đi bộ từ nhà tại thôn 6, xã L, huyện B tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài và mua rượu uống. Khi đến nhà anh Nguyễn Thanh P, thấy trước sân nhà có xe máy hiệu LiFan màu nâu, biển kiểm soát 47L4 -51xx, trên cổ xe có cắm chìa khóa, nhà không có cổng, không có ai trông coi nên vào lấy trộm xe máy đi ra khỏi cổng rồi nổ máy bỏ chạy về hướng huyện Di Linh. Khi đến thôn P, xã Đ, huyện D, H vào tiệm thu mua phế liệu của anh Nguyễn Công T, cân xe lên được 72kg bán được 600.000 đồng. Bán xong, H bắt xe buýt đi về nhà, mua rượu, đồ ăn và 01 gói thuốc ngựa đỏ tổng cộng hết 160.000 đồng, còn lại 440.000 đồng H cất giữ trong người. Còn anh Phước khi phát hiện mất xe đã xem camera của gia đình biết H lấy trộm xe của mình nên đến Công an xã Lộc An, huyện Bảo Lâm trình báo. Công an xã L, huyện B đã mời H lên làm việc thì H thừa nhận việc lấy trộm xe máy như trên của anh Phước và giao nộp số tiền còn lại là 440.000 đồng. Ngoài ra, Công an xã Lộc An còn thu giữ và chuyển cho Công an huyện Bảo Lâm: 01 xe máy hiệu LiFan màu nâu, biển kiểm soát 47L4-51xx; 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi phạm tội của H.

Tại Kết luận định giá tài sản số 01/HĐĐGTS ngày 14/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố hình tụng hình sự huyện Bảo Lâm kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Lifan, biển số: 47L4-51xx, số khung: 013DL001xxx, số máy: 30025xxx, xe không có giàn yếm (dàn nhựa xe) có giá trị là 2.400.000 đồng.

Do đó, hành vi của bị cáo Thái H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” tại điểm h Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Thái H khi quyết định hình phạt. Ngày 08/02/2022 H chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích, đến ngày 14/12/2022 H thực hiện hành vi phạm tội như trên nên thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng số 21/CT-VKSBL ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng truy tố đối với bị cáo Thái H là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, thể hiện sự coi thường pháp luật, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật mà vẫn thực hiện, thể hiện sự liều lĩnh, gây dư luận xấu về tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng cho bị cáo H một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, đủ để răn đe, cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 166, Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015: Người bị hại ông anh Nguyễn Thanh P đã nhận lại tài sản của mình là 01 xe gắn máy nhãn hiệu Lifan, biển số: 47L4-51xx và không yêu cầu gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Công T không yêu cầu bị cáo Thái H trả lại số tiền 600.000 đồng. Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về phần dân sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm đã thu giữ và trả lại cho anh Nguyễn Thanh P 01 xe gắn máy nhãn hiệu Lifan, biển số: 47L4-51xx xong nên Hội đồng xét xử không đề cập đến. Đối với 01 USB video ghi lại hành vi phạm tội của bị cáo Thái H cần lưu theo hồ sơ vụ án. Đối với số tiền 440.000 đồng do bị cáo H nộp lại, xét đây là tài sản do phạm tội mà có nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định.

[7] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án” buộc bị cáo Thái H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thái H phạm tội “Trộm cắp tài sản.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Thái H 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14 tháng 12 năm 2022.

2. Về xử lý vật chứng:

+ Lưu trữ theo hồ sơ vụ án 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi phạm tội của bị cáo Thái H (được bỏ trong 01 phong bì thư dán kín, có đóng dấu giáp lai dấu tròn đỏ của Công an xã Lộc An- Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng và Cơ quan cảnh sát Điều tra- Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, các chữ ký và chữ viết họ và tên gồm Trương Quốc Hòa, Nguyễn Thanh P, Trương Hữu N).

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 440.000 đồng tại tài khoản số 3949.0.9059262.00xxx của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng tại Kho bạc nhà nước huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng theo ủy nhiệm chi ngày 15 tháng 3 năm 2023.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Thái H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, ngươi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo thủ tục phúc thẩm (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được quyền kháng cáo phần có liên quan).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2023/HS-ST

Số hiệu:27/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về