Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT – TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2022/HSST ngày 09 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Phan Văn N (tên gọi khác: không), sinh ngày 10/11/1987 tại Bình Thuận; Giới tính: nam; Nơi ĐKHKTT và cư trú: Khu phố 5, phường Lạc Đ, thành phố Phan T, tỉnh Bình Thuận; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Bốc vác; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phan Văn T, sinh năm 1960, trú tại khu phố 5, phường Lạc Đ, thành phố Phan T và bà Nguyễn Thị Bích V (đã chết); Anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình Vợ con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự:

+ Ngày 03/01/2020, bị Chủ tịch UBND phường Lạc Đ, thành phố Phan Thiết ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, chấp hành xong ngày 03/4/2020.

+ Ngày 03/7/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 15 tháng. chấp hành xong ngày 15/8/2021.

Nhân thân: Ngày 23/6/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (theo bản án số 94/2011/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/9/2015, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt vào ngày 15/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết và có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Chị Cao Thị Phượng T - sinh năm 1992. Trú tại: Thôn 2, xã Hồng S, huyện Hàm Thuận B, tỉnh Bình Thuận (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phan Đức T - sinh năm 1994. Trú tại: khu phố 7, phường Lạc Đ, thành phố Phan T, tỉnh Bình Thuận. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 08 giờ ngày 25/8/2020, do không có tiền tiêu xài nên Phan Văn N (sinh năm 1987, trú tại: khu phố 5, phường Lạc Đ, thành phố Phan T) đi bộ từ nhà đến các tuyến đường nằm trong khu vực phường Lạc Đ nhằm mục đích tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến bên hông Tịnh xá Ngọc T thuộc khu phố 3, phường Lạc Đ, thành phố Phan Thiết thì N phát hiện một chiếc xe mô tô hiệu Sirius màu đỏ đen, biển số 86B3-143.31 của chị Cao Thị Phượng T (sinh năm 1992, trú tại: thôn 2, xã Hồng S, huyện Hàm Thuận B) không khóa cổ. Quan sát không có người trông coi nên N lén lút đi đến lấy trộm chiếc xe mô tô dắt bộ đi đến một ngôi nhà hoang tại khu phố 7, phường Lạc Đ để tháo biển số, bửng và ba ga xe ra và lấy áo mưa trùm chiếc xe mô tô lại để cất giấu. Sau đó, N gọi điện thoại cho Phan Đức T (sinh năm 1994, trú tại: khu phố 7, phường Lạc Đ, thành phố Phan T) nói N có chiếc xe mô tô nhưng bị mất chìa khóa nên muốn bán, hỏi T có mua không thì T nói để xuống xem xe rồi mua. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, N dắt bộ chiếc xe xuống khu vực phường Đức T gặp T thì T đồng ý mua với giá 2.000.000 đồng nhưng T đưa trước 1.000.000 đồng, còn 1.000.000 đồng T hẹn chiều đưa. Đến chiều cùng ngày vì không có tiền nên T gọi điện thoại cho N nói trả lại xe và yêu cầu N trả lại 1.000.000 đồng, nhưng N đã tiêu xài hết tiền và không còn tiền trả lại cho T nên T giữ lại xe mô tô biển số 86B3-143.31, khi nào N trả lại cho T 1.000.000 đồng thì T sẽ trả lại xe mô tô cho N.

Đối với chị Cao Thị Phượng Th, khi khát hiện bị mất xe mô tô, chị Th đến Công an phường Lạc Đ trình báo. Qua xác minh, Công an phường đã đưa N về trụ sở làm việc. Tại Công an phường, N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đồng thời chỉ nơi đã bán xe mô tô biển số 86B3-143.31.

Tại Bản kết luận định giá số 272/KL-HĐĐG ngày 06/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 86B3-14331, số máy: 5C63- 635135, số khung: C630CY635086 có tổng giá trị là 7.200.000 đồng.

Vật chứng của vụ án: 01 (một) xe mô tô hiệu Sirius màu đỏ đen, không biển số, không có bửng và ba ga, số máy: 5C63-635135, số khung: C630CY635086 (thu giữ từ Phan Đức T); 01 (một) biển số xe 86B3-14331; 01 (một) bộ bửng xe màu đỏ đen, gồm 02 cái; 01 (một) baga inox (thu giữ từ Phan Văn N).

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Đối với xe mô tô hiệu Sirius màu đỏ đen, biển số 86B3-143.31, 01 bộ bửng xe và 01 baga xe, quá trình điều tra xác định người đứng tên đăng ký xe là chị Cao Thị Phượng Th. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu, trả lại toàn bộ tài sản trên cho chị Th. Sau khi nhận lại tài sản, chị Th không có yêu cầu gì về dân sự.

- Đối với số tiền 1.000.000 đồng mà Phan Đức T đã trả cho Phan Văn N khi mua xe mô tô, quá trình điều tra T không yêu cầu N phải trả lại.

Ngoài hành vi phạm tội nói trên, N còn khai nhận vào ngày 19/8/2020 có hành vi trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Tirana, màu nâu, biển số 86H4-2210 của ông Trần L (sinh năm 1947, trú tại khu phố 2, phường Lạc Đ, thành phố Phan Thiết). Qua định giá tài sản, xe mô tô biển số 86H4-2210 có trị giá 1.800.000 đồng, không đủ định lượng cấu thành tội trộm cắp tài sản, tại thời điểm này Phan Văn N chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết đã chuyển hồ sơ đến Công an Phường Lạc Đ để xử phạt hành chính đối với hành vi nói trên của Ng.

Với hành vi trên, ngày 08/02/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết ra bản cáo trạng số 07/CT-VKS truy tố Phan Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu lời luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay N thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của chị Cao Thị Phượng Th do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Phan Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi lượng hình đề nghị HĐXX xem xét bị cáo có nhân thân xấu đã nhiếu lần bị xử lý do vi phạm pháp luật và cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự vì trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo. Từ những phân tích trên, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo không trình bày lời bào chữa, không tranh luận gì với Viện kiểm sát, đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như lời kết tội của Viện kiểm sát.

Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, cũng như lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 25/8/2020, tại khu vực bên hông Tịnh xá Ngọc Th thuộc khu phố 3, phường Lạc Đạo, thành phố Phan Thiết, Phan Văn N đã lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô biển số 86B3-143.31 trị giá 7.200.000 đồng của chị Cao Thị Phượng Th.

Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi và thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý. Do đó Cáo trạng số 07/CT- VKS ngày 08/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo Phan Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ cho nhu cầu cá nhân mà bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, hành vi này của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Mặc khác bị cáo có nhân thân xấu đã được giáo dục cải tạo nhưng vẫn không cải thiện nên cần phải xử phạt nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên lại có nhân thân xấu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về bồi thường dân sự: Chị Cao Thị Phượng T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên HĐXX không đưa ra để xem xét.

Đối với anh Phan Đức T là người mua chiếc xe, khi mua anh T không biết về nguồn gốc xe là do trộm cắp mà có nên không xem xét xử lý hình sự là có căn cứ. Quá trình điều tra, anh T cũng không yêu cầu N trả lại số tiền 1.000.000 đồng (tiền mua xe) nên HĐXX không đưa ra để xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn N 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị bắt 15/12/2021.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/02/2022). Những người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về