Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THỦY, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 288/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

La Hữu K, sinh năm: 1975 tại Cần Thơ. Nơi cư trú: Tổ 18, khu vực X, phường S, quận W, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Văn H (c) và bà Đinh Thị L; em ruột có 02 người (lớn sinh năm 1978, nhỏ sinh năm 1980); bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: Không; tiền án: 02 lần

– Vào ngày 26/10/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù, nộp án phí ngày 11/9/2019 và vào ngày 27/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/02/2021, chưa nộp án phí; về nhân thân: Ngày 19/5/1995, bị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (cũ) xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 04/02/2010, Bị Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 22/11/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 29/6/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; Vào ngày 21/3/2018, bị Công an huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long xử phạt hình chính số tiền 2.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị bắt tạm giam từ ngày 05/01/2022 cho đến nay. (có mặt).

- Bị hại:

1. Ông Dương Văn B, sinh năm: 1928 (vắng mặt) Trú tại: Số 387/18, khu vực X, phường S, quận W, thành phố Cần Thơ.

2. Ông Huỳnh H P, sinh năm: 1974 (vắng mặt) Trú tại: Số 1068, khu vực X, phường U, quận W, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có việc làm nhưng muốn có tiền tiêu xài nên La Hữu K nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Trong thời gian từ ngày 02/7/2021 đến ngày 04/01/2022, K đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận W, thành phố Cần Thơ, cụ thể:

Vào khoảng 18 giờ ngày 02/7/2021 La Hữu K đi đến nhà ông Dương Văn B – ngụ số 387/18, khu vực X, phường S, quận W, thành phố Cần Thơ. Khi đến nơi, K thấy ông B nên xin ông B mở cửa rào để đi vào phần đất nhà ông B thăm lưới đang giăng ở vũng đập cạnh phần đất của ông B thì ông B đồng ý. Sau khi thăm lưới xong, K quay lại cặp hành lang nhà đi ra phía sau để tìm ông B, khi đi ngang bàn tròn đặt ở đầu giường ngủ của ông B thì K nhìn thấy trên bàn có 03 chiếc điện thoại di động để trong bọc nilon màu trắng ở trên bàn. Lúc này, K quan sát không thấy ai nên K bước vào dùng tay phải lấy bọc nilon có 03 chiếc điện thoại di động bên trong rồi mở cổng đi ra ngoài. Khi ra ngoài, K đặt bọc nilon có 03 chiếc điện thoại di động dưới gốc dừa mé sông nhà ông B, K xuống cầu để tắm, xong rồi lấy 03 chiếc điện thoại cầm về. Khi đến trước cửa nhà của bà Trương Thị M - ngụ số 286/18, khu vực X, phường S, quận W, thành phố Cần Thơ, K ném 03 chiếc điện thoại di động vừa lấy trộm được vào hàng ba nhà bà M, K nói “của ông B, cất đi”. Đến trưa ngày 03/7/2021, khi K đang nằm võng phía đối diện nhà bà Nguyễn Thị Đậm thì ông B đến hỏi “mấy cái điện thoại của tao đâu” thì K trả lời “tôi lấy đưa cho bà M kìa”, sau đó ông B trình báo vụ việc đến cơ quan chức năng và tiến hành thu giữ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen Model: TA- 1034; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen model: TA-1212 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen có 02 khe gắn sim (không có số imei); cả 03 chiếc điện thoại đều đã qua sử dụng, không mở nguồn lên được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 29/KL-HĐĐGTS ngày 04/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận W kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen Model: TA-1034 đã qua sử dụng, không mở nguồn được và còn sử dụng được trị giá 80.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen model: TA-1212, đã qua sử dụng, không mở nguồn được trị giá 25.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen có 02 khe gắn sim (không có số imei) đã qua sử dụng, không mở nguồn được trị giá 25.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 130.000 đồng.

Ngày 01/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận W, thành phố Cần Thơ ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với La Hữu K và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú về tội “Trộm cắp tài sản”; trong thời gian tại ngoại, K tiếp tục trộm cắp tài sản của người khác, cụ thể:

Vào khoảng 16 giờ ngày 04/01/2022, La Hữu K cùng với Nguyễn Thành H đến Nghĩa trang phường U để uống rượu. Đến 19 giờ thì H rủ K đi bộ đến nhà ông Q để uống rượu tiếp, tuy nhiên khi đến nhà thì không gặp ông Q nên H và K đi bộ quay về Nghĩa trang. Trên đường quay về thì K nhìn thấy nhà ông Huỳnh H P có hàng rào sắt đang bật đèn sáng nhưng không có đóng cửa. Lúc này K nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền mua rượu. K mở cửa hàng rào, còn H thì ở bên ngoài. Lúc này, K phát hiện không có ai ở trong nhà nên K tiếp tục đi vào bên trong nhà để tìm tài sản và phát hiện trên bàn làm việc có 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6 và Samsung Galaxy A52 nên K lấy trộm cả 02 chiếc điện thoại di động bỏ vào túi áo bên trái rồi đi bộ về Nghĩa trang phường U để uống rượu tiếp với H nhưng không nói với H về việc trộm được điện thoại và H cũng không hỏi. Quá trình uống rượu tại Nghĩa trang thì K để 02 chiếc điện thoại di động ở bãi cỏ gần chỗ ngồi. Đến sáng ngày 05/01/2022, K lấy 02 chiếc điện thoại di động trong bãi cỏ ra cho H xem, H hỏi nguồn gốc của 02 chiếc điện thoại thì K trả lời của em gái rồi cả hai tiếp tục uống rượu. Sau đó, Công an phường U đến mời K về làm việc, K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giao nộp 02 chiếc điện thoại đã trộm cắp được. Công an phường U lập biên bản thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu đen, số seri: R58K5433NTB, số imei: 358465090031165 đã qua sử dụng, vẫn còn hoạt động và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A52, màu đen, số seri: R58R32R39CW, số imei: 354550800936433 đã qua sử dụng, vẫn còn hoạt động.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 05/KL-HĐĐGTS ngày 25/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận W kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu đen, số seri: R58K5433NTB, số imei:

358465090031165 đã qua sử dụng, vẫn còn hoạt động trị giá 850.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A52, màu đen, số seri: R58R32R39CW, số imei: 354550800936433 đã qua sử dụng, vẫn còn hoạt động trị giá 6.350.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận W đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông Dương Văn B 03 chiếc điện thoại di động bị mất ngày 02/7/2021 và trả lại cho ông Huỳnh H P 02 chiếc điện thoại di động bị mất ngày 04/01/2022. Ông Dương Văn B và ông Huỳnh H P không có yêu cầu gì thêm.

Đối với bà Trương Thị M do không biết các tài sản La Hữu K đưa là tài sản phạm tội mà có nên chưa đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Thành H chưa đủ cơ sở để xác định ông H có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nên không truy tố xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số: 29/CT-VKSBT ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận W, thành phố Cần Thơ đã truy tố La Hữu K về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và cáo trạng truy tố là đúng tội của bị cáo. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại nên xin xem xét giảm nhẹ hình phạt sớm về lo cho gia đình. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại vắng mặt.

Quan điểm của Kiểm sát viên: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố nên đề nghị giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo đã nhiều lần bị kết án về các tội xâm phạm sở hữu nhưng không biết cải sửa, thể hiện tính xem thường pháp luật của bị cáo nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đề nghị áp dụng Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 04 năm tù đến 05 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã thu hồi và trả lại tài sản cho bị hại, bị hại không có yêu cầu bồi thường thêm nên không đặt ra để giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Quá trình điều tra đã tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho những người tham gia tố tụng. Các chứng cứ tại hồ sơ đủ để kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như để giải quyết các vấn đề khác có liên quan. Người bị hại không có yêu cầu bồi thường và vắng mặt nên căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị hại là phù hợp.

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với các chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, lời khai của những người có mặt tại phiên tòa và nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ nhận thức pháp luật, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động, xem thường giá trị tài sản của người khác. Bị cáo đã nhiều lần bị kết án về hành vi xâm phạm sở hữu, trong đó có 02 lần chưa được xóa án tích nhưng không biết cải sửa nên lần phạm tội này cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh trật tự tại địa phương; bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án và 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm sở hữu nhưng không biết cải sửa; sau khi thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 02/7/2021, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện tính xem thường pháp luật của bị cáo; bị cáo phạm tội 02 lần nên áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự và áp dụng hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là cần thiết để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

Đối với bà Trương Thị M và ông Nguyễn Thành H chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận W không ra quyết định xử lý theo quy định của pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng thu giữ: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận W đã thu hồi tài sản trả lại cho người bị hại và người bị hại không có yêu cầu gì thêm.

[4] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo La Hữu K phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo La Hữu K 05 (năm) năm tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày 05/01/2022.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận W đã thu hồi tài sản trả lại cho người bị hại và không ai có yêu cầu bồi thường thêm.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về