Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIÊN KHÁNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 15/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021; các Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2021/HSST-QĐ ngày 14 tháng 5 năm 2021, số: 21/2021/HSST-QĐ ngày 02 tháng 6 năm 2021, số: 27/2021/HSST-QĐ ngày 29 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lê Minh P, sinh năm: 198x tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Số X, Phường 6, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Số Y, phường N, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật Giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Minh H và bà Phạm Thị Đ; có vợ là bà Nguyễn Thị Ngọc T, có 02 con (con lớn sinh năm: 200x, con nhỏ sinh năm: 201x); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 03/8/2006, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số: 1047/2006/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/8/2008. Ngày 02/4/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số: 18/2021/HSST. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/11/2020 đến nay; có mặt.

2. Ngô Minh Đ (tên gọi khác: B), sinh năm: 197x tại tỉnh Khánh Hòa, nơi cư trú: Số Z, phường P, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô M và bà Đặng Thị H; có vợ là bà Đinh Thị Mỹ H, có 01 con (sinh năm: 199x); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21/10/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 10 (mười) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số: 179/2005/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/8/2012. Ngày 02/4/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/11/2020 theo bản án số: 18/2021/HSST. Bị cáo đang chấp hành án tại trại giam Xuân Phước - Cục C10 - Bộ Công an; có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Hồ Văn N, sinh năm: 197x Nơi cư trú: Thôn X, xã D, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

2. Ông Huỳnh Ngọc T, sinh năm: 197x

3. Bà Phạm Lê Anh Ngọc C, sinh năm: 197x Cùng nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; ông T có mặt, bà C có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Ông Phan Văn Tr, sinh năm: 196x Nơi cư trú: Thôn P, xã D, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Ngô Thị Kim T1, sinh năm: 197x Nơi cư trú: Thôn X, xã D, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bà Võ Thị C1, sinh năm: 196x Nơi cư trú: Thôn P, xã D, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

3. Ông Nguyễn Quốc T1, sinh năm: 198x Nơi cư trú: Số A, phường P, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Thái N, sinh năm: 199x Nơi cư trú: Thôn X, xã D, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bà Lê Thị Thu Ng, sinh năm: 197x Nơi cư trú: Thôn X, xã D, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

3. Bà Nguyễn Thị Ngọc Tr, sinh năm: 198x Nơi cư trú: Số Y, phường N, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ 1: Khoảng 12 giờ ngày 18/11/2020, Lê Minh P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 79N1-788.12 đi từ thành phố Nha Trang đến khu vực thôn X, xã Diên Xuân, huyện Diên Khánh để giải quyết công việc cá nhân. Sau đó, P nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. P dừng xe mô tô trước quán café Ruby rồi đi bộ ngang qua tiệm vật liệu xây dựng “T.N”, P phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Blade, biển kiểm soát: 79D1-669.66 của ông Hồ Văn N đang dựng trước nhà, không có người trông coi, trên xe cắm sẵn chìa khóa nên P đi đến, khởi động và điều khiển xe mô tô đi theo đường Hương lộ 39. Ông N đi tìm và khi đến đoạn đường thuộc thôn Thượng, xã Diên Lâm thì phát hiện được P đang điều khiển xe của mình nên truy đuổi; P bị té ngã và bị ông N bắt giữ cùng tang vật rồi đưa về Công an xã Diên Xuân làm việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 73/KL-HĐĐGTS ngày 19/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Diên Khánh kết luận xe mô tô biển kiểm soát: 79D1-669.66 có giá trị 17.600.000 đồng.

Vụ 2: Qua điều tra xác minh được, khoảng 16 giờ ngày 09/11/2020, Lê Minh P gặp Ngô Minh Đ, cả hai rủ nhau đi từ thành phố Nha Trang đến huyện Diên Khánh tìm xe mô tô trộm cắp. P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 79N1-788.12 chở Đ, khi đến tiệm tạp hóa “T.C” tại thôn B, xã Diên Hòa, huyện Diên Khánh, cả hai phát hiện xe mô tô hiệu Wave S, biển kiểm soát: 79T3-0221 của vợ chồng ông Huỳnh Ngọc T, bà Phạm Lê Anh Ngọc C đang dựng trước tiệm, không có người trông coi, trên xe cắm sẵn chìa khóa. Đ cảnh giới cho P đi đến dắt xe mô tô biển kiểm soát:

79T3-0221 rồi nổ máy xe điều khiển chạy đi. Đến khu vực Lầu 7, phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang, P và Đ bán xe mô tô trộm cắp được cho người tên T (chưa xác định được nhân thân, lý lịch) với giá 1.800.000 đồng rồi chia nhau mỗi người 900.000 đồng tiêu xài cá nhân. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh đã có thông báo truy tìm nhưng chưa thu hồi lại được xe mô tô này.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 76/KL-HĐĐGTS ngày 04/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Diên Khánh kết luận xe mô tô biển kiểm soát: 79T3-0221 có giá trị 9.600.000 đồng.

Vụ 3: Qua quá trình điều tra, Ngô Minh Đ khai: Khoảng 16 giờ ngày 02/11/2020, Đ gặp đối tượng tên P (chưa xác định được nhân thân, lý lịch), cả hai rủ nhau đi từ thành phố Nha Trang đến huyện Diên Khánh để tìm xe mô tô trộm cắp. Đến trước nhà ông Phan Văn Tr thuộc thôn P, xã Diên Phước, huyện Diên Khánh, Đ và P phát hiện xe mô tô hiệu Wave, biển kiểm soát: 79D1-035.06 đang dựng trong sân, trên xe có cắm sẵn chìa khóa, không có người trông coi. Đ ở ngoài cảnh giới cho P đi đến, dắt xe rồi nổ máy, điều khiển chạy về khu vực Lầu 7, phường Vĩnh Phước, thành phố Nha Trang bán cho đối tượng tên T được 1.700.000 đồng, rồi chia nhau tiêu xài cá nhân. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh đã có thông báo truy tìm nhưng chưa thu hồi lại được xe mô tô này.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 95/KL-HĐĐGTS ngày 29/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Diên Khánh kết luận xe mô tô biển kiểm soát: 79D1-035.06 có giá trị 8.000.000 đồng.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh, các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Bản Cáo trạng số: 13/CT-VKSDK ngày 26/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh truy tố các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo như nội dung bản Cáo trạng nêu trên; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Minh P từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/11/2020.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Minh Đ từ 15 tháng đến 18 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh đã giao trả xe mô tô biển kiểm soát: 79D1-669.66 cho chủ sở hữu ông Hồ Văn N nên không giải quyết.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận về bồi thường thiệt hại giữa các bị cáo với người bị hại.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh truy tố. Các bị cáo đồng ý với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự các bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của người bị hại.

Bị hại ông Hồ Văn N yêu cầu bị cáo Lê Minh P phải bồi thường thiệt hại cho ông đối với tài sản bị hư hỏng, chi phí sửa chữa xe mô tô biển kiểm soát: 79D1- 669.66 số tiền 5.135.000 đồng. Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

Bị hại ông Huỳnh Ngọc T yêu cầu bị cáo Lê Minh P và bị cáo Ngô Minh Đ phải liên đới bồi thường thiệt hại tài sản cho vợ chồng ông Huỳnh Ngọc T, bà Phạm Lê Anh Ngọc C đối với xe mô tô biển kiểm soát: 79T3-0221 bị trộm cắp là 9.600.000 đồng; trong đó, mỗi bị cáo phải bồi thường 4.800.000 đồng. Về trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thì đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

Bị hại bà Phạm Lê Anh Ngọc C có đơn xin xét xử vắng mặt và bà thống nhất với ý kiến của ông Huỳnh Ngọc T.

Bị hại ông Phan Văn Tr có đơn xin xét xử vắng mặt và ông yêu cầu bị cáo Ngô Minh Đ phải bồi thường thiệt hại tài sản cho ông đối với xe mô tô biển kiểm soát: 79D1-035.06 bị trộm cắp là 8.000.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị C1 trình bày thống nhất với ý kiến của ông Phan Văn Tr. Bà không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại tài sản.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Kim T1 có đơn xin xét xử vắng mặt và bà thống nhất với ý kiến của ông Hồ Văn N. Bà không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại tài sản.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quốc T1 vắng mặt; quá trình điều tra, giải quyết vụ án, ông T1 không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại tài sản.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Bị hại bà Phạm Lê Anh Ngọc C, ông Phan Văn Tr, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Kim T1 có đơn xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quốc T1 vắng mặt lần thứ hai không lý do; người làm chứng ông Trần Thái N, bà Lê Thị Thu Ng, bà Nguyễn Thị Ngọc Tr vắng mặt nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án. Do đó, căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2]. Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[3]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở kết luận: Lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, khoảng 12 giờ ngày 18/11/2020, Lê Minh P đã trộm xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Blade, biển kiểm soát: 79D1-669.66 của ông Hồ Văn N tại thôn X, xã Diên Xuân, huyện Diên Khánh có trị giá 17.600.000 đồng. Khoảng 16 giờ ngày 09/11/2020, Lê Minh P và Ngô Minh Đ đã trộm xe mô tô kiểu dáng Wave S, biển kiểm soát: 79T3-0221 của vợ chồng ông Huỳnh Ngọc T, bà Phạm Lê Anh Ngọc C tại thôn B, xã Diên Hòa, huyện Diên Khánh có trị giá 9.600.000 đồng. Khoảng 16 giờ ngày 02/11/2020, Ngô Minh Đ đã trộm cắp xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát: 79D1-035.06 của ông Phan Văn Tr tại thôn P, xã Diên Phước, huyện Diên Khánh có trị giá 8.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo P trộm cắp là 27.200.000 đồng; tổng giá trị tài sản mà bị cáo Đ trộm cắp là 17.600.000 đồng. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh truy tố các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ.

[4.1]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò của từng bị cáo: Hành vi của các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản và chiếm đoạt tài sản của người khác bất hợp pháp, xâm phạm đến quyền sở hữu được Nhà nước bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Trong vụ án này, bị cáo P vừa thực hiện hành vi phạm tội đơn lẻ, vừa thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm có tính chất giản đơn; bị cáo là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Đ là người thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người giúp sức. Thiệt hại về tài sản mà bị cáo P gây ra cho người bị hại là lớn hơn so với bị cáo Đ.

[4.2]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ đều bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội từ 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự và được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo có nhân thân xấu.

[4.3]. Về hình phạt đối với các bị cáo: Căn cứ vào vai trò, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5]. Về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án: Theo bản án số: 18/2021/HSST ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa thì bị cáo Lê Minh P bị xử phạt 03 năm tù, bị cáo Ngô Minh Đ bị xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định Bộ luật Hình sự. Thời gian bị cáo Đ đã chấp hành hình phạt tù của bản án số: 18/2021/HSST ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa từ ngày 19/11/2020 đến nay (ngày 21/7/2021) là 08 tháng 02 ngày được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

[6.1]. Bị hại ông Hồ Văn N yêu cầu bị cáo Lê Minh P phải bồi thường thiệt hại về tài sản bị hư hỏng, chi phí sửa chữa xe mô tô kiểu dáng Blade, biển kiểm soát: 79D1-669.66 số tiền 5.135.000 đồng. Bị cáo P đồng ý bồi thường thiệt hại cho ông N với số tiền này. Xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại; sự thỏa thuận này không trái pháp luật nên ghi nhận.

[6.2]. Bị hại ông Huỳnh Ngọc T và bà Phạm Lê Anh Ngọc C yêu cầu các bị cáo Lê Minh P và Ngô Minh Đ phải liên đới bồi thường thiệt hại tài sản cho vợ chồng ông T, bà C đối với xe mô tô kiểu dáng Wave S, biển kiểm soát: 79T3-0221 bị trộm cắp là 9.600.000 đồng; trong đó, mỗi bị cáo phải bồi thường 4.800.000 đồng. Các bị cáo P, Đ đồng ý bồi thường thiệt hại cho vợ chồng ông N, bà C với số tiền này. Xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại; sự thỏa thuận này không trái pháp luật nên ghi nhận.

[6.3]. Bị hại ông Phan Văn Tr yêu cầu bị cáo Ngô Minh Đ phải bồi thường thiệt hại tài sản cho ông đối với xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát: 79D1- 035.06 bị trộm cắp là 8.000.000 đồng. Bị cáo Đ đồng ý bồi thường thiệt hại cho ông Tr với số tiền này. Xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại; sự thỏa thuận này không trái pháp luật nên ghi nhận.

[6.4]. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Kim T1, bà Võ Thị C1, ông Nguyễn Quốc T1 không có yêu cầu về bồi thường dân sự nên không xét.

[7]. Về xử lý vật chứng:

[7.1]. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh đã giao trả xe mô tô biển kiểm soát: 79D1-669.66 cho chủ sở hữu ông Hồ Văn N nên không giải quyết.

[7.2]. Đối với xe mô tô biển kiểm soát: 79N1-788.12 mà bị cáo P sử dụng đi trộm cắp tài sản. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh đã giao trả cho chủ sở hữu ông Nguyễn Quốc T1 nên không giải quyết.

[8]. Về án phí:

[8.1]. Bị cáo P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 496.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm {(5.135.000 đồng + 4.800.000 đồng) x 5%}.

[8.2]. Bị cáo Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 640.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm {(4.800.000 đồng + 8.000.000 đồng) x 5%}.

[9]. Các vấn đề khác:

[9.1]. Đối với đối tượng tên P (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có tham gia cùng bị cáo Đ lấy trộm xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát: 79D1-035.06 của ông Phan Văn Tr tại thôn P, xã Diên Phước, huyện Diên Khánh và cùng bị cáo Đ lấy trộm xe mô tô kiểu dáng Dream, màu nâu tại thôn T, xã Diên Lâm, huyện Diên Khánh trong tháng 11/2020 (theo lời khai của bị cáo Đ), đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.

[9.2]. Đối với đối tượng tên T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là người mua tài sản mà các bị cáo trộm cắp là xe mô tô kiểu dáng Wave S, biển kiểm soát: 79T3-0221 của bà Phạm Lê Anh Ngọc C; xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát: 79D1- 035.06 của ông Phan Văn Tr và xe mô tô kiểu dáng Dream, màu nâu (theo lời khai của các bị cáo P, Đ), đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Minh P.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Ngô Minh Đ.

Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587, Điều 589 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ Điều 136, Điều 292, Điều 293, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt bị cáo Lê Minh P 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 18/11/2020. Tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số: 18/2021/HSST ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, buộc bị cáo Lê Minh P phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 05 (năm) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2020.

Xử phạt bị cáo Ngô Minh Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án. Tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số:

18/2021/HSST ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 03 (ba) năm tù; trừ thời gian bị cáo đã chấp hành hình phạt tù là 08 tháng 02 ngày, bị cáo Ngô Minh Đ phải chấp hành hình phạt còn lại là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng 28 (hai mươi tám) ngày tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/7/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự:

- Bị cáo Lê Minh P phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Hồ Văn N số tiền 5.135.000 đồng (năm triệu một trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

- Bị cáo Lê Minh P và bị cáo Ngô Minh Đ phải liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho vợ chồng ông Huỳnh Ngọc T, bà Phạm Lê Anh Ngọc C số tiền 9.600.000 đồng (chín triệu sáu trăm nghìn đồng); trong đó, mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền 4.800.000 đồng (bốn triệu tám trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Ngô Minh Đ phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Phan Văn Tr số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng).

3. Về án phí:

- Bị cáo Lê Minh P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 496.000 đồng (bốn trăm chín mươi sáu nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Bị cáo Ngô Minh Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 640.000 đồng (sáu trăm bốn mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quy định: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Lê Minh P, Ngô Minh Đ, người bị hại ông Hồ Văn N, ông Huỳnh Ngọc T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị C1 có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại bà Phạm Lê Anh Ngọc C, ông Phan Văn Tr, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Kim T1, ông Nguyễn Quốc T1 có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 26/2021/HS-ST

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về