Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N - TỈNH N

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2022/HSST ngày 11 tháng 2 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2022/QĐXXST-HS ngày 24/02/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Phương N - Sinh năm 1999.Tên gọi khác: Không. Tại N.

Nơi ở và nơi ĐKNKTT: thôn T, xã N, thành phố N, tỉnh N. Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.Văn hoá: 09/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị H.Vợ: con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo không bị tạm giam, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn“ Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 04/12/2021 đến nay. Có mặt.

Người bị hại: Bà Đinh Thị H sinh năm 1965, trú tại Thôn Tiền, xã Ninh Nhất, thành phố N, tỉnh N. Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Đinh Văn Ư, sinh năm 1986, trú tại thôn T, xã N, thành phố N, tỉnh N. Vắng mặt.

Người làm chứng: Bà Đinh Thị H Bà Đinh Thị L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 8 giờ ngày 25/9/2021, Nguyễn Phương N đi chơi về thấy nhà mình khóa cửa nên đã đi bộ sang nhà bà Đinh Thị H là hàng xóm bên cạnh nhà mình tại thôn Tiền, xã Ninh Nhất để xin nƯ uống. Khi vào đến cửa thì thấy bà Đinh Thị H là mẹ đẻ chị H đang ở dưới bếp không chú ý đến mình. N phát hiện bên cạnh cánh cửa ra vào phòng khách phía bên phải khoảng 70cm có một máy làm mát không khí nhãn hiệu Sunhouse màu ghi trắng cao khoảng 1,1m, rộng 60cm, bên dưới có bánh xe nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc máy trên. N tiến lại gần dùng hai tay ôm máy tì vào ngực, nhấc bổng lên rồi đi sang khu đất trống nhà mình cát giấu vào trong chuồng gà. Khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày N lấy chiếc bạt màu xanh cam có sẵn ở chuồng gà quấn kín lên chiếc máy làm mát không khí nhằm mục đích không ai biết chứa vật gì. Sau đó N kéo chiếc máy làm mát không khí đến nhà anh Đinh Văn Ư cùng trú tại thôn Tiền, xã Ninh Nhất. Tại đây N đã bán chiếc quạt cho anh Ư với giá 1.000.000đồng. Số tiền trên, N đã đã dùng để tiêu sài cá nhân và trả nợ cho người phụ nữ tên Ngọc (không biết rõ họ tên đệm, địa chỉ) bán trà sữa đi dạo dọc đường. Khoảng 20 giờ cùng ngày, chị Đinh Thị H đi làm về thì phát hiện không thấy chiếc quạt đâu.

Đến ngày 25/9/2021 chị H đã lên trình báo với Công an xã Ninh Nhất.

Quá điều tra xác minh, ngày 29/9/2021 cơ quan Công an đã triệu tập Nguyễn Phương N lên làm việc, tại đây N đã khai báo toàn bộ hành vi trộm cắp của mình.

Cơ quan điều tra đã thu giữ tại nhà anh Đinh Văn Ư 01 máy làm mát không khí nhãn hiệu Sunhouse SHD 7757, màu ghi trắng, cao khoảng 1,1m, rộng 60cm, bên dưới có bánh xe di chuyển, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 69/KL- HĐ ngày 25/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân tỉnh N xác định giá trị tài sản trên là 01 máy làm mát không khí nhãn hiệu Sunhouse (đã qua sử dụng) có giá trị 2.400.000đồng (hai triệu bốn trăm nghìn đồng).

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Phương N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi Trộm cắp tài sản của mình như đã nêu trên.

Đối với 01 máy làm mát không khí nhãn hiệu Sunhouse, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Đinh Thị H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại cho bà H. Bà H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì, đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với Nguyễn Phương N.

Đối với anh Đinh Văn Ư là người mua chiếc máy làm mát không khí nhãn hiệu Sunhouse của Nguyễn Phương N với số tiền 1.000.000đồng. Quá trình điều tra xác định anh Ư không biết tài sản trên do N trộm cắp mà có. Nguyễn Phương N và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho anh Ư số tiền 1.000.000đồng. Anh Ư đã nhận đủ và không có yêu cầu gì khác.

Đối với chiếc bạt màu xanh cam mà Nguyễn Phương N dùng để che giấu chiếc máy làm mát không khí mang đi tiêu thụ, sau khi sử dụng N đã vất chiếc bạt trên đi, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được.

Tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 11/02/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Nguyn Phương N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Nguyễn Phương N phạm tội Trộm cắp tài sản. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Phương N từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Nguyễn Phương N cho Ủy ban nhân dân xã Ninh Nhất, thành phố N, tỉnh N giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Ninh Nhất nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Khấu trừ 5% đến 10% thu nhập hàng tháng đối với bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt.Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra giải quyết do người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận tài sản, được bồi tH thiệt hại và không có yêu cầu gì. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên và không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo đã có bản kiểm điểm, đã được lấy lời khai, hỏi cung. Bị cáo đã được đọc và công nhận đúng lời khai của mình. Bản thân bị cáo xác định không bị ép cung, ngược đãi hành hạ, đánh đập và không có khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố N, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện là hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội: Khoảng 8 giờ sáng ngày 25/9/2021, bị cáo Nguyễn Phương N đi chơi về, thấy nhà mình khóa cửa nên đã sang nhà bà Đinh Thị H là hàng xóm bên cạnh nhà mình tại thôn Tiền, xã Ninh Nhất để xin nƯ uống thì nhìn thấy chiếc máy làm mát không khí nhãn hiệu Sunhouse SHD 7757 của bà H để trong phòng khách gần cửa ra vào, trong nhà không có ai chỉ có mẹ bà H ở dưới bếp không để ý nên bị cáo đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc máy và lén lút đi vào bê chiếc máy mang về cất giấu tại chuồng gà nhà mình, sau đó mang đi bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Giá trị chiếc máy làm mát không khí mà bị cáo Nguyễn Phương N chiếm đoạt Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự xác định giá trị là 2.400.000đồng.

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Phương N phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, biên bản xác định hiện trường, bản ảnh hiện trường và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Phương N đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được luật Hình sự bảo vệ, do vậy cần phải được xử lý trước pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không có; về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, hành vi phạm tội mang tính bột phát, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã tự giác bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng thêm Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Phương N hình phạt cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho Chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục là cần thiết đồng thời khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt để sung quỹ Nhà nước là cũng có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[3].Về trách nhiệm dân sự: Bà Đinh Thị H đã nhận lại tài sản là chiếc máy làm mát không khí bị mất; anh Đinh Văn Ư đã được bị cáo N trả lại số tiền 1.000.000đồng do đã mua chiếc máy. Đến nay bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu đề nghị gì nữa nên vấn đề trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét giải quyết.

[4]. Vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ tên Ngọc mà N khai đã trả tiền nợ: do N không biết rõ họ tên tuổi địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với chiếc bạt màu xanh mà bị cáo N dùng để che dấu không thu giữ được nên không có cơ sở để xử lý.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời gian luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phương N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Nguyễn Phương N 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Nguyễn Phương N cho Ủy ban nhân dân xã Ninh Nhất, thành phố N, tỉnh N giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Ninh Nhất, thành phố N, tỉnh N nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Gia đình bị cáo Nguyễn Phương N có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Ninh Nhất, thành phố N, tỉnh N trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng đối với bị cáo Nguyễn Phương N trong thời gian chấp hành hình phạt để sung quỹ Nhà nước.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Phương N phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[ Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về