Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ K, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Thị Thu Q, sinh năm 1984, tại huyện C, tỉnh An Giang; Hộ khẩu thường trú: số 122/3, tổ 21, khóm V, phường N, thành phố K, tỉnh An Giang; nơi cư trú: tổ 10, khóm O, phường N, thành phố K, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Đạo phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh M, sinh năm 1950 và bà Huỳnh Thị H (đã chết); anh em ruột có 04 người, bị cáo là người con thứ tư. Chồng là Nguyễn Song T, sinh năm 1982; có 01 con sinh năm 2005.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 18/02/2020, Tòa án nhân dân thành phố K quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn là 18 tháng, đến ngày 11/4/2021, chấp hành xong.

Bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 13/01/2022, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Lê Thị Thảo NG, sinh năm 1999; nơi cư trú: tổ 07, khóm X, phường N, thành phố K, tỉnh An Giang (vắng mặt).

Người làm chứng:

- Bà Phan Thanh Ut, sinh năm 1995 (vắng mặt);

- Bà Nguyễn Thị Nt, sinh năm 1964 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 40 phút ngày 05/11/2021, Trần Thị Thu Q đi bộ đến cửa hàng tạp hóa “Hồng Phước” tại tổ 13, khóm O, phường N, thành phố K, tỉnh An Giang phát hiện xe mô tô biển số 67E1-411.83 của Lê Thị Thảo NG đang đậu phía trước cửa hàng, có để 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Vivo Y53S trong rổ kim loại gắn trên cánh yếm xe, không người trông giữ. Q lén lấy trộm điện thoại mang về nhà tổ 13, khóm O, phường N, thành phố K, tỉnh An Giang cất giấu. Phát hiện mất trộm, NG trình báo công an, mời Q làm việc, Q thừa nhận lấy trộm, giao nộp vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y53S, màu xanh- đen (đã trao trả cho bị hại Lê Thị Thảo NG).

Căn cứ các Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 252/KL-ĐG ngày 23/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố K xác định: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Vivo Y53S, màu xanh - đen, trị giá 6.000.000 đồng.

Phát hiện bị mất trộm, bị hại Lê Thị Thảo NG đã tố giác, ngày 13/01/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Tại Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 06/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K đã truy tố bị cáo Trần Thị Thu Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015).

Tại phiên tòa, Bị cáo thừa nhận hành vi của mình như nội dung cáo trạng công bố và bị cáo thống nhất với các ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố K, không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo để tiếp tục mua bán nuôi gia đình.

Chủ tọa công bố lời khai của bị hại Lê Thị Thảo NG, người làm chứng Phan Thanh Ut, Nguyễn Thị Nt, bản kết luận định giá tài sản số 252/KL-ĐG ngày 23/11/2021 của Hội đồng định giá.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thuộc thành phần lao động, học lực thấp; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo tự nguyện khắc phục hậu quả đây là các tình tiết trên được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Thị Thu Q 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị không áp dụng.

Về xử lý vật chứng, quá trình điều tra vật chứng đã được Cơ quan điều tra giao trả cho bị hại Lê Thị Thảo NG là phù hợp với quy định pháp luật nên đề nghị không xử lý lại.

Về trách nhiệm dân sự, bị hại Lê Thị Thảo NG không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên không đề cập giải quyết.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố K, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị hại Lê Thị Thảo NG và người làm chứng Phan Thanh Ut và Nguyễn Thị Nt vắng mặt. Tuy nhiên, quá trình điều tra, những người vắng mặt đã có lời khai rõ ràng, không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, lời khai nhận tội của bị cáo Trần Thị Thu Q khai nhận: Khoảng 10 giờ 40 phút ngày 05/11/2021, Trần Thị Thu Q đi bộ đến cửa hàng tạp hóa “Hồng Phước” phát hiện xe mô tô biển số 67E1-411.83 của NG đang đậu phía trước cửa hàng, có để 01 điện thoại di động trong rổ kim loại gắn trên cánh yếm xe, không người trông giữ. Q lén lấy trộm điện thoại mang về nhà cất giấu. Phát hiện mất trộm, NG trình báo công an, mời Q làm việc, Q thừa nhận lấy trộm, giao nộp vật chứng.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và người làm chứng, phù hợp với kết quả thực nghiệm điều tra và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ là 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Vivo Y53S, màu xanh - đen (đã trao trả cho bị hại Lê Thị Thảo NG nhận).

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo Trần Thị Thu Q đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại Lê Thị Thảo NG với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 6.000.000 đồng.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, lén lút chiếm đoạt tài sản của công dân có giá trị trên 2.000.000 đồng nhưng chưa đến 50.000.000 đồng với lỗi cố ý trực tiếp vì động cơ tư lợi, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố K đối với bị cáo tại phiên tòa về tội danh, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, đúng với chủ trương của nhà nước trong việc phòng chống tội phạm nhất là tội trộm cắp tài sản đang xảy ra ở địa phương ngày càng một gia tăng nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, quyền sở hữu là một trong những quyền thiêng liêng gắn với mỗi cá nhân, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong lĩnh vực hình sự, những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, đáp ứng quy định của pháp luật hình sự sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.

Bị cáo là người đang ở tuổi lao động. Đáng lẽ, bị cáo phải tìm cho mình một công việc phù hợp để nuôi sống bản thân, gia đình nhưng vì hám lợi, bị cáo trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm quyền sở hữu của người khác mà còn gây mất trật tự, trị tại an địa phương. Do đó, cần có hình phạt tương xứng đối với bị cáo để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có 01 tiền sự: ngày 18/02/2020, Tòa án nhân dân thành phố K quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn là 18 tháng, đến ngày 11/4/2021, chấp hành xong, chưa xóa tiền sự.

Tuy nhiên, bị cáo thuộc thành phần lao động, học lực thấp, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo tự nguyện khắc phục hậu quả; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K đã giao trả cho bị hại Lê Thị Thảo NG 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Vivo Y53S, màu xanh - đen, xét thấy quá trình điều tra vật chứng đã được Cơ quan điều tra giao trả cho bị hại Lê Thị Thảo NG là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét;

[8] Về trách nhiệm dân sự, bị hại Lê Thị Thảo NG đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên không đề cập giải quyết.

[9] Về án phí hình sự và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Thu Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt Trần Thị Thu Q 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Thị Thu Q phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Trần Thị Thu Q có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bị hại Lê Thị Thảo NG là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về