TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 251/2021/HS-ST NGÀY 26/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 209/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 313/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn C (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1990 tại tỉnh An Giang; Hộ khẩu thường trú: Ấp P, xã P, huyện P, tỉnh An Giang; Chỗ ở trước khi bị bắt: Không nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha Nguyễn Văn N, sinh năm: 1963 và mẹ Nguyễn Thị N, sinh năm: 1964; Bị cáo là con thứ 02 trong gia đình có 03 chị em.
Tiền án: Ngày 31-12-2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 256/HSST. Chấp hành xong ngày 12-9-2020.
Tiền sự: Ngày 01-02-2021, Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng.
Nhân thân: Ngày 18-4-2012 UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ra Quyết định số 750/QĐ đưa vào cơ sở giáo dục tỉnh.
Bị bắt ngày 11-5-2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (có mặt)
* Bị hại: Anh Bùi Văn Q, sinh năm: 2000. (Vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định. Địa chỉ: Số 16/24 đường X, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Nguyễn Thị L, sinh năm: 1996. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 1580 đường 30-4, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 21-12-2020, sau khi nhậu say thì Nguyễn Văn C cùng chị Nguyễn Thị L đi bộ đến khu vực hẻm 111 đường Hoàng Hoa Thám, phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu để tìm bạn. Trên đường đi, C đã đi vào dãy phòng trọ tại hẻm 16/24 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu phát hiện có một xe mô tô để lối đi của dãy phòng trọ, C đã lén lút dắt xe môt tô biển kiểm soát 64F8 – 2811 C anh Bùi Văn Q trong dãy trọ đi ra ngoài. Khi C dắt xe gần đến cổng C dãy trọ thì anh Q phát hiện tri hô. C nghe thấy tiếng tri hô nên hoảng sợ, quăng xe của anh Q lại trước dãy phòng trọ rồi bỏ chạy về phòng trọ của Út (bạn C) tại hẻm kế bên.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG-TTHS ngày 20-01-2021 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Vũng Tàu kết luận 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 64F8 - 2811 có giá trị là 1.500.000đ (một triệu năm trăm ngàn đồng).
* Việc thu giữ và xử lý đồ vật, tài sản, vật chứng:
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Stream, biển kiểm soát 64F8 - 2811, số máy V0P1P52F-MH012168, số khung 50FMG3 - 10686295. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định trả lại xe mô tô trên cho anh Bùi Văn Q.
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Q đã nhận lại được tài sản, không có yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bản cáo trạng số 217/CT-VKS ngày 27-7-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.
- Trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu gì nên đề nghị không xem xét giải quyết.
- Xử lý tài sản, đồ vật, vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản cho bị hại nên đề nghị không xem xét giải quyết.
Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố, bị cáo thự hiện hành vi phạm tội một mình, không bàn bạc, không bị xúi giục, chị Nguyễn Thị L không biết C có ý định và đi trộm cắp. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện là hợp pháp.
[1.2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Bị hại anh Q, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị L vắng mặt tại phiên tòa nhưng không có thiệt hại gì và không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Q, chị L theo quy định tại điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[2]. Về hành vi phạm tội C bị cáo được xác định như sau:
Căn cứ lời khai nhận hành vi của bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 21-12-2020, Nguyễn Văn C đi vào dãy phòng trọ tại hẻm 16/24 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu đã lén lút dắt xe mô tô biển kiểm soát 64F8 – 2811 C anh Bùi Văn Q. Khi C dắt xe gần đến cổng của dãy trọ thì anh Q phát hiện tri hô nên C hoảng sợ, quăng xe của anh Q lại trước dãy phòng trọ rồi bỏ chạy. Theo bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG-TTHS ngày 20-01-2021 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Vũng Tàu kết luận 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 64F8 - 2811 có giá trị là 1.500.000đ (một triệu năm trăm ngàn đồng). Mặc dù tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000đ (hai triệu đồng) nhưng bị cáo có một tiền án về “Tội trộm cắp” theo Bản án số 256/HSST ngày 31-12-2019, chấp hành án xong ngày 12-9-2020 chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp như nhận định nêu trên.
Vì vậy, hành vi của bị cáo C đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng nảy sinh lòng tham, muốn có tiền để tiêu sài nên đã bất chấp và cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần tuyên một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Về tình tiết tăng nặng: Không có.
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được áp dụng tình tiết giảm theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 01-02-2021, Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng và ngày 18-4-2012 UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ra Quyết định số 750/QĐ đưa vào cơ sở giáo dục tỉnh.
[5] Về xử lý vật chứng, tài sản:
Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vũng Tàu đã trả 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Stream, biển kiểm soát 64F8 - 2811, số máy V0P1P52F-MH012168, số khung 50FMG3 – 10686295 nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Các vấn đề khác: Đối với chị L là bạn gái của C thời điểm C thực hiện hành vi trộm cắp nêu trên chị Ly đi cùng C. Tuy nhiên, chị Ly khai việc C thực hiện hành vi trộm cắp thì chị Ly không biết, không được C bàn bạc trước cũng không xúi giục C, chỉ đến khi nghe nghe mọi người tri hô trộm thì chị Ly thấy C tháo chạy và chị Ly chạy theo hỏi C có chuyện gì nhưng C không nói. Lời khai của chị Ly đồng nhất với lời khai của bị cáo C. Do đó, không có căn cứ xác định chị Ly có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo C nên không đủ cơ sở để truy tố đối với chị Ly [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11-5-2021.
2. Về xử lý vật chứng:
Bị hại là anh Bùi Văn Q đã nhận lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Stream, biển kiểm soát 64F8 - 2811, số máy V0P1P52F-MH012168, số khung 50FMG3 – 10686295.
3. Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu nên không giải quyết.
4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định C pháp luật để yêu cầu TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 251/2021/HS-ST
Số hiệu: | 251/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về