TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên toà số 03/TB-TA ngày 12 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Lê Văn L, sinh ngày 01/10/1990 tại huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam;
Nơi cư trú: Khối phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Nam; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Không nghề; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L, sinh năm 1964 và bà Từ Thị Như U, sinh năm 1968; Nhân thân: Ngày 27/7/2014 Chủ tịch UBND thị trấn Tân An xử phạt hành chính với số tiền 4.000.000 đồng. Tiền sự: không; Tiền án:
+ Ngày 14/3/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng tuyên phạt 05 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
+ Ngày 27/8/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Hiệp Đức tuyên phạt 09 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích.
+ Ngày 26/11/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Hiệp Đức tuyên phạt 12 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 13/6/2022. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Bà Võ Thị H; Sinh năm 1998; Tạm trú tại: Khối phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 30 phút, ngày 13/6/2022, Lê Văn L, sinh năm 1990, trú khối phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Nam đi bộ trên đường Võ Chí Công từ nhà theo hướng Quế Thọ, Hiệp Đức tìm tài sản để trộm cắp. L đi đến nhà trọ của chị Võ Thị H, sinh năm 1998, trú khối phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Nam thấy nhà mở cửa L đi từ ngoài sân vào phòng ngủ của chị H, không thấy có người trong phòng. L đi vào phòng ngủ của chị H thấy trên kệ gỗ gần giường ngủ có 02 chiếc điện thoại di động gồm: một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu vàng gold, số IMEI 356714082824984, bên trong gắn thẻ sim số 0978929692 có ốp lưng màu xanh lá cây và một điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax màu xám xanh, số IMEI 350002263939482, bên trong gắn thẻ sim số 0931305728 có ốp lưng màu đen. L lấy 02 chiếc điện thoại nói trên bỏ vào túi quần rồi nhanh chóng rời khỏi nhà.
L đi đến cầu Khe Cú thuộc khối phố A, thị trấn T thì lấy điện thoại ra xem, biết điện thoại Iphone không thể mở khóa nên L tháo 01 sim số 0931305728 trên điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax vứt xuống cầu rồi mang điện thoại về nhà. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, khi đang đi trên đường thì L bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Hiệp Đức phát hiện, lúc này trên người L đang giữ 02 chiếc điện thoại mà L vừa trộm được.
Tại Kết luận định giá số 03/KL-HĐĐG ngày 14/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hiệp Đức kết luận: một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu vàng gold, số IMEI 356714082824984, bên trong gắn thẻ sim số 0978929692 có ốp lưng màu xanh lá cây có giá 3.500.000 đồng và một điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax màu xám xanh, số IMEI 350002263939482, có ốp lưng màu đen có giá 12.000.000 đồng. Tổng trị giá 02 chiếc điện thoại là 15.500.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số: 22/CT-VKS ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Lê Văn L với mức án từ 24 đến 30 tháng tù.
Về vật chứng vụ án: Cơ quan CSĐT Công an huyện Hiệp Đức đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại hai chiếc điện thoại di động (Iphone 8 Plus và Iphone 12 Promax) cho chị Võ Thị H là chủ sở hữu.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu, nên không xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng:
Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hiệp Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về sự vắng mặt của bị hại tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 06 giờ 30’ ngày 13/6/2022, tại nhà chị Võ Thị H thuộc khối phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Nam, Lê Văn L lén lút chiếm đoạt hai chiếc điện thoại di động (Iphone 8 Plus màu vàng gold, số IMEI 356714082824984, bên trong gắn thẻ sim số 0978929692 có ốp lưng màu xanh lá cây và Iphone 12 Promax màu xám xanh, số IMEI 350002263939482, bên trong gắn thẻ sim số 0931305728 có ốp lưng màu đen) của chị Võ Thị H. Định giá hai chiếc điện thoại trên với số tiền là 15.500.000 đồng. Bị cáo đã tái phạm chưa được xoá án tích (có 03 tiền án chưa được xoá án tích) mà thực hiện hành vi phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
Hành vi trên của bị cáo Lê Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi này không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Tài sản trộm cắp đã được thu hồi toàn bộ trả cho người bị hại. Với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu trên, xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (sửa đổi bổ sung năm 2017). Nhưng bị cáo L có nhân thân xấu và ba tiền án chưa được xoá án tích, cần phải áp dụng hình phạt tù.
Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có tài sản gì. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
[5] Về vật chứng vụ án:
Cơ quan CSĐT Công an huyện Hiệp Đức đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu vàng gold, số IMEI 356714082824984, bên trong gắn thẻ sim số 0978929692 có ốp lưng màu xanh lá cây và một điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax màu xám xanh, số IMEI 350002263939482 có ốp lưng màu đen cho chị Võ Thị Hiệp là chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HS-ST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Tuyên bố bị cáo Lê Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Lê Văn L 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 13/6/2022.
Về án phí:
Căn cứ vào khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Lê Văn L phải chịu án phí HS-ST là 200.000 đồng.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (20/9/2022). Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2022/HS-ST
Số hiệu: | 24/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Đức - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về