Bản án về tội trộm cắp tài sản số 233/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 233/2022/HS-ST NGÀY 21/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 12 năm 2022, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:329/2022/TLST-HS, ngày 09 tháng 11 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 386/2022/QĐXXST-HS, ngày 08 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Phạm Hòa T, sinh năm 1995, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Nhà số 2/4/31/37, đường L T H, phường P T H, quận T P, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang H và bà Phạm Thị Kim L; có vợ (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2017; tiền án: Ngày 28/7/2020, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt chính ngày 20/02/2021 cùng các quyết định khác ngày 24/02/2021 và 25/02/2021, án tích chưa được xóa); tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 19/3/2016, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường 14, quận Tân Bình ra Quyết định đưa vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân cắt cơn, giải độc trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (ngày 09/5/2016, đã hủy Quyết định này do T có nơi cư trú ổn định); bị tạm giữ ngày 12-7-2022 (tính theo biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang do Công an phường Bình Hưng Hòa lập lúc 02 giờ 30 phút ngày 12-7-2022), tạm giam ngày 22-7-2022 “có mặt”.

*Các bị hại:

1. Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1977. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Nhà số 144/BC/BD, Đường Số S, Khu phố S, phường B H H B, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh “xin vắng mặt”;

2. Anh Bùi Ngọc C, sinh năm 1X. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã B L, huyện T B, tỉnh Q N; nơi ở: Nhà số 377/8/1, đường B Đ, Phường 15, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.

3. Chị Nguyễn Thị Xuân H, sinh năm 1978. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số BC, đường Liên Khu H-M, phường B H H A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: Nhà số 64, Đường 18D, phường B H H A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:

Lần thứ nhất: Khi Nguyễn Phạm Hòa T rủ tên Nguyễn Hồ Thanh T (sinh ngày 28/3/2007) đi tìm tài sản để lấy bán kiếm tiền tiêu xài thì tên T1 đồng ý. Sau đó lúc khoảng 00 giờ ngày 12/7/2022, T điều khiển xe môtô hiệu Honda, loại Vario, màu đỏ, biển số 59Y1-X.15 chở tên T1 đi đến trước nhà của chị Hoàng Thị T tại số 144/36/4D, Đường Số 6, Khu phố 6, phường B H H B, quận B T thì T nhìn thấy cửa nhà khóa ngoài nên dừng xe và kêu tên T1 đứng cảnh giới; còn T đi vào dùng kềm cộng lực cắt ổ khóa mở cửa nhà ra nhìn thấy bên trong có 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Airblade, màu đen, biển số 50N1- X.08 và 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Airblade, màu đỏ, biển số 59N1- X.80 đều có cắm sẵn chìa khóa trong ổ khóa xe nên T lấy trước chiếc xe biển số 50N1-X.08 dẫn ra ngoài, khép cửa lại rồi cùng với tên T1 bỏ chạy tẩu thoát về nhà trọ của T cất giấu chiếc xe của chị T2. Xong, T tiếp tục điều khiển xe môtô biển số 59Y1-X.15 chở tên T1 chạy quay lại nhà chị T2 rồi T đi vào lấy thêm chiếc xe môtô biển số 59N1-X.80 dẫn ra ngoài, đóng cửa lại rồi cùng với tên T1 chạy tẩu thoát về nhà trọ của T cất giấu chiếc xe thứ 02 của chị T2. Tại nhà trọ, tuy T và tên T1 có mở cốp của cả 02 chiếc xe ra để kiểm tra xem bên trong nhưng không thấy có tài sản gì mà chỉ có một số giấy tờ rồi lấy mang đi vứt bỏ.

Lần thứ hai: Vào khoảng 02 giờ cùng ngày, T điều khiển xe biển số 59Y1-X.15 chở T1 đi tìm tài sản để lấy tiếp. Khi đến trước nhà của anh Bùi Ngọc C tại số 131/2, Đường Số 7, phường B H H, quận B T nhìn thấy cửa nhà khóa ngoài nên T dừng xe lại và rọi đèn xe hướng vào cửa nhà để cho tên T1 đi vào nhìn qua khe cửa xem bên trong có tài sản gì không và khi đó: Tên T1 nhìn thấy có chiếc xe môtô hiệu Sirius, biển số 54N4-X8 nên ra báo cho T biết. Lúc này, tên T1 đứng bên ngoài cảnh giới; còn T đi vào dùng kềm cộng lực cắt ổ khóa mở cửa nhà ra, sau đó cả 02 vào bên trong lấy gồm: 01 đầu phát Wifi hiệu FPT, 01 đầu thu camera hiệu Hikvision và 01 đầu CPU (máy tính) hiệu Nexlink của anh Chương cùng với 01 chiếc xe môtô biển số 54N4-X8 của chị Nguyễn Thị Xuân H đưa ra ngoài thì liền bị Bảo vệ Khu phố đang tuần tra đến phát hiện bắt giữ giao cho Công an phường Bình Hưng Hòa xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, tuy cả 02 đều đã khai nhận T1 bộ hành vi như vừa mới nêu trên và T1 bộ số tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi giao trả lại cho các bị hại. Riêng đối với tên T1, do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không bị xử lý.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T khai nhận, do cần tiền tiêu xài nên khi bị cáo rủ tên Nguyễn Hồ Thanh T đi tìm tài sản để lấy bán thì tên T1 đồng ý; khi đó, lợi dụng lúc đêm khuya và cửa nhà khóa ngoài, bị cáo cùng với tên T1 đã 02 lần dùng kềm cộng lực cắt khóa cửa nhà để đột nhập vào trong lấy tài sản của người khác, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất, lấy 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Airblade, màu đen, biển số 50N1-X.08 và 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Airblade, màu đỏ, biển số 59N1-X.80 của chị Hoàng Thị T.

Lần thứ hai, lấy 01 đầu phát Wifi hiệu FPT, 01 đầu thu camera hiệu Hikvision và 01 đầu CPU (máy tính) hiệu Nexlink của anh Bùi Ngọc C cùng với 01 chiếc xe môtô hiệu Sirius, biển số 54N4-X8 của chị Nguyễn Thị Xuân H thì bị phát hiện, bắt giữ; tuy bị cáo có rủ tên T1 cùng tham gia thực hiện chiếm đoạt tài sản nhưng không có bàn bạc hay phân công gì trước cho nhau nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thống nhất về tài sản của chị T2 có tổng giá trị là 35.000.000 đồng, của anh Chương là 3.800.000 đồng và của chị Hương là 5.500.000 đồng; bị cáo không có ý kiến gì về trách nhiệm dân sự; còn riêng về tài sản đang bị tạm giữ thì, chỉ yêu cầu trả lại chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8.

Bản cáo trạng số 245/CT-VKS ngày 07 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T đã 02 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác; trong đó, lần thứ nhất là tài sản của chị Hoàng Thị T có tổng giá trị 35.000.000 đồng; còn lần thứ hai, là tài sản của anh Bùi Ngọc C có tổng giá trị 3.800.000 đồng và của chị Nguyễn Thị Xuân H 5.500.000 đồng (tổng cộng 44.300.000 đồng). Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đồng thời còn phải chịu 03 tình tiết tăng nặng là “Tái phạm”, “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm và tương xứng. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h, o khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, do các bị hại đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không ai có yêu cầu gì thêm nên không có ý kiến; còn về vật chứng, đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Riêng đối với tên Nguyễn Hồ Thanh T, do khi phạm tội dưới 16 tuổi nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên đã chuyển sang xử lý hành chính.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T tại phiên tòa hôm nay cho thấy, bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác và cụ thể như sau: lần thứ nhất, vào khoảng 00 giờ ngày 12/7/2022, bị cáo lấy 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Airblade, màu đen, biển số 50N1-X.08 và 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Airblade, màu đỏ, biển số 59N1-X.80 của chị Hoàng Thị T để tại nhà số 144/36/4D, Đường Số 6, Khu phố 6, phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân; lần thứ hai, vào khoảng 02 giờ cùng ngày, bị cáo lấy 01 đầu phát Wifi hiệu FPT, 01 đầu thu camera hiệu Hikvision và 01 đầu CPU (máy tính) hiệu Nexlink của anh Bùi Ngọc C cùng với 01 chiếc xe môtô hiệu Sirius, biển số 54N4-X8 của chị Nguyễn Thị Xuân H để tại nhà số 131/2, Đường Số 7, phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân. Theo các Kết luận định giá tài sản số 388/KL-HĐĐGTS và số 390/KL-HĐĐGTS, cùng ngày 19/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Tân thì, 02 tài sản của chị T2 có tổng giá trị là 35.000.000 đồng, của anh Chương là 3.800.000 đồng và của chị Hương là 5.500.000 đồng (tổng cộng 44.300.000 đồng). Do đó, bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của các bị hại; người có liên quan về hành vi của bị cáo; hình ảnh trích xuất từ camera an ninh; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản, bản ảnh thực nghiệm điều tra; vật chứng thu giữ được, kết quả định giá tài sản…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng đối với tên Nguyễn Hồ Thanh T, do khi phạm tội mới chỉ đủ 15 tuổi 03 tháng 12 ngày là chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về “Tội phạm ít nghiêm trọng” theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Cơ quan điều tra đã chuyển sang xử lý hành chính là có căn cứ nên không xét.

[4] Xét bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người khác, thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có tiền để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân. Đồng thời, bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên lần phạm tội này là “Tái phạm”; đã 02 lần thực hiện hành vi phạm tội này với mỗi lần tài sản đều có giá trị trên 2.000.000 đồng là “Phạm tội 02 lần trở lên” và đã khởi xướng, rủ rê tên Nguyễn Hồ Thanh T tham gia thực hiện hành vi phạm tội khi mới chỉ đủ 15 tuổi 03 tháng 12 ngày là “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” nên bị cáo phải chịu 03 tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g, h, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, cần phải xử bị cáo với mức án tương xứng tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Xét tại phiên tòa hôm nay, tuy các bị hại là chị Hoàng Thị T có đơn xin vắng mặt, anh Bùi Ngọc C và chị Nguyễn Thị Xuân H đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt, nhưng theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và nội dung đơn thì: các bị hại đều đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có ai yêu cầu gì thêm nên không xét.

[7] Về vật chứng: Đối với chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Vario, màu đỏ, biển số 59Y1-X.15 của mẹ bị cáo là bà Phạm Thị Kim L, cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại và không biết bị cáo sử dụng chạy đến nơi thực hiện hành vi phạm tội và tẩu thoát; 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Airblade, màu đen, biển số 50N1-X.08 và 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Airblade, màu đỏ, biển số 59N1-X.80 của chị Hoàng Thị T; 01 đầu phát Wifi hiệu FPT, 01 đầu thu camera hiệu Hikvision và 01 đầu CPU (máy tính) hiệu Nexlink của anh Bùi Ngọc C cùng với 01 chiếc xe môtô hiệu Sirius, biển số 54N4-X8 của chị Nguyễn Thị Xuân H, Cơ quan điều tra đã thu hồi giao trả lại cho bà L, chị T2, anh C và chị H nên không xét. Còn 01 cái điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đỏ (đã qua sử dụng) của bị cáo, do không liên quan gì đến hành vi phạm tội nên cần giao trả lại cho bị cáo. Riêng, 01 cái túi đeo màu đen, kích thước 29cm x 19cm, bên ngoài có chữ ADIDAS màu trắng (đã qua sử dụng); 01 cái ổ khóa màu bạc bằng kim loại, mắt trước ổ khóa có chữ “Kinbar ALARMLOCK”, phần móc khóa của ổ khóa đã bị cắt; 01 cái kềm cộng lực bằng kim loại màu đen, phần tay cầm bằng nhựa màu đen, kềm cộng lực có độ dài 30cm (đã qua sử dụng); 01 cái đầu đoản bằng kim loại, dài 8cm (đã qua sử dụng); 01 cái đầu nối bằng kim loại, dài 6,5cm x 11,5cm (đã qua sử dụng); 01 cái mũ bảo hiểm màu xanh, phía trước có logo ghi chữ “CKC-chun kua” (đã qua sử dụng); 01 cái quần jean màu đen (đã qua sử dụng); 01 cái áo khoát màu đen, tay áo dài màu xám, có mũ đội màu xanh (đã qua sử dụng); 01 cái mũ bảo hiểm màu xám, bên hông có chữ adidas (đã qua sử dụng); 01 cái áo sơ mi dài tay màu xanh (đã qua sử dụng); 01 cái quần Jean dài màu đen, bên túi trái có chữ “BA KHU UK” (đã qua sử dụng); 01 cái chìa khóa tự chế (đoản) là thanh kim loại có mũi nhọn dài 8cm; 01 thanh kim loại có cán hình trụ tròn, một đầu có hàn thanh kim loại cờ lê là của bị cáo; trong đó, có 01 phần dùng làm công cụ phạm tội, 01 phần tuy không phải là công cụ phạm tội nhưng do bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tất cả để tiêu hủy.

[8] Bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạt bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12-7-2022.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Giao trả lại cho bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T 01 cái điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đỏ (đã qua sử dụng). Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 cái túi đeo màu đen, kích thước 29cm x 19cm, bên ngoài có chữ ADIDAS màu trắng (đã qua sử dụng); 01 cái ổ khóa màu bạc bằng kim loại, mắt trước ổ khóa có chữ “Kinbar ALARMLOCK”, phần móc khóa của ổ khóa đã bị cắt; 01 cái kềm cộng lực bằng kim loại màu đen, phần tay cầm bằng nhựa màu đen, kềm cộng lực có độ dài 30cm (đã qua sử dụng); 01 cái đầu đoản bằng kim loại, dài 8cm (đã qua sử dụng); 01 cái đầu nối bằng kim loại, dài 6,5cm x 11,5cm (đã qua sử dụng); 01 cái mũ bảo hiểm màu xanh, phía trước có logo ghi chữ “CKC-chun kua” (đã qua sử dụng); 01 cái quần jean màu đen (đã qua sử dụng); 01 cái áo khoát màu đen, tay áo dài màu xám, có mũ đội màu xanh (đã qua sử dụng); 01 cái mũ bảo hiểm màu xám, bên hông có chữ adidas (đã qua sử dụng); 01 cái áo sơ mi dài tay màu xanh (đã qua sử dụng); 01 cái quần Jean dài màu đen, bên túi trái có chữ “BA KHU UK” (đã qua sử dụng); 01 cái chìa khóa tự chế (đoản) là thanh kim loại có mũi nhọn dài 8cm; 01 thanh kim loại có cán hình trụ tròn, một đầu có hàn thanh kim loại cờ lê.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số NK23/35TAM ngày 15/11/2022)

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Phạm Hòa T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại chị Hoàng Thị T, anh Bùi Ngọc C và chị Nguyễn Thị Xuân H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 233/2022/HS-ST

Số hiệu:233/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về