Bản án về tội trộm cắp tài sản số 228/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 228/2023/HS-PT NGÀY 06/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 252/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Y C H’đơk. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Y C Hđơk; sinh ngày: 12/10/1991, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Buôn D, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá (học vấn): 0/12; dân tộc: Ê đê; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Y L Kbuôr và bà H Ň Kbuôr; có vợ là H P Hđơk và có 01 con, sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại – vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Y C Hđơk: Ông Phùng Văn H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án có 01 bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 02/5/2023, Y S – Hmŏk, Y N Êňuôl và Y C Hđơk ngồi uống rượu với nhau tại nhà bố mẹ của Y S là ông Y N Niê, bà H J Hmŏk ở buôn K, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Trong lúc uống rượu, Y S rủ Y C và Y N Êňuôl đi trộm cắp tài sản ở huyện C thì Y C và Y N đồng ý. Khoảng 23 giờ 30 phút, Y S sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 47T1-203.XX (xe thuộc sở hữu của ông Y D Byă - bố vợ của Y S) chở Y N và Y C sang huyện C. Khi đi qua buôn K, xã T, huyện C, thấy cửa sổ phòng ngủ nhà anh Nguyễn Văn K đang mở và phòng bật đèn sáng mờ nên dừng xe, cất giấu xe vào rẫy cà phê (cách nhà anh K khoảng 200m). Tại đây, Y S nói Y N đứng coi xe còn Y S và Y Cđi bộ lại nhà anh K để tìm kiếm tài sản. Khi đi đến nơi, Y S bám vào song cửa sổ nhìn vào bên trong phòng ngủ nhưng không phát hiện tài sản gì, tiếp đó Y C bám tay vào song cửa sổ quan sát thì thấy 01 ví da và 01 điện thoại di động đang cắm xạc để trên bàn nên nói với Y S. Nghe vậy, Y S đi ra phía sau nhà (cách 30m) bẻ 01 cành cây dài khoảng 01m rồi dùng cành cây này khều điện thoại và ví da ra gần cửa để lấy tài sản. Sau khi lấy được tài sản, Y S bỏ điện thoại vào túi quần và mở ví da lấy tiền rồi ném ví lại vào trong phòng ngủ. Sau đó, Y S và Y C đi bộ một đoạn, dừng lại và đếm số tiền đã trộm cắp được 1.400.000 đồng. Y C nói với Y S mỗi người lấy 500.000 đồng và thống nhất nói với Y N là chỉ trộm cắp được 400.000 đồng thì Y S đồng ý. Y S và Y C quay lại chỗ Y N đứng coi xe, Y S đưa điện thoại di động cho Y C và Y N xem rồi cả ba điều khiển xe qua thị trấn B uống rượu, sau đó về nhà bố mẹ Y S ngủ. Khoảng 05 giờ ngày 03/5/2023, anh Nguyễn Văn K ngủ dậy phát hiện bị mất tài sản nên đã làm đơn trình báo Cơ quan Công an. Qua xác định vị trí của điện thoại, Cơ quan Công an huyện Cư Kuin đã làm việc với Y C thì Y C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đến ngày 06/5/2023 Y S và Y N ra đầu thú.

Tại Kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐGTS, ngày 08/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cư Kuin, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Pro Max VN/A128 GB (Space Black) tại thời điểm định giá ngày 03/5/2023 là 21.500.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 28/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Y C Hđơk phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Y C Hđơk 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày vào thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với 01 bị cáo khác, về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/8/2023, bị cáo Y C Hđơk có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Bản án sơ thẩm tuyên xử bị cáo Y C Hđơk phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là phù hợp và tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Y C Hđơk. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thâm số 28/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin tỉnh Đắk Lắk về hình phạt đối với bị cáo Y C Hđơk. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Y C H’đơk đồng ý về tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự mà Bản án sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt không lớn, là người dân tộc thiểu số nên khả năng nhận thức có phần hạn chế và là người bị rủ rê, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ cận nghèo và đang nuôi con nhỏ, là lao động chính trong gia đình, có nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên ý kiến và không tranh luận gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự vắng mặt của bị cáo Y C Hđơk: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Y C Hđơk mặc dù đã được triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Do đó căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xét vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để khẳng định: Vào tối ngày 02/5/2023 lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của anh Nguyễn Văn K, các bị cáo Y S Hmŏk và Y C Hđơk đã lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Pro Max VN/A128 GB (Space Black) có giá trị là 21.500.000 đồng và số tiền 1.400.000 đồng, Tổng cộng là 22.900.000 đồng (Hai mươi hai triệu, chín trăm nghìn đồng) của anh Nguyễn Văn K. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Y C Hđơk về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Y C Hđơk, Hội đồng xét xử thấy: Mức hình phạt 01 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Y C Hđơk là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Trong quá trình xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Y C Hđơk phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Tuy nhiên, bị cáo Y C Hđơk thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Y C Hđơk. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Y C Hđơk 01 (một) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày vào thi hành án.

[3] Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Y C Hđơk được miễn án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 228/2023/HS-PT

Số hiệu:228/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về