TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở H, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2022/ HSST ngày 29/4/2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/ QĐXXST- HS ngày 05 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
- Họ và tên bị cáo: Nguyễn Văn N, sinh năm 1990; nơi sinh tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm 9, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị R; có vợ: Chị Phạm Thị D và có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018.
Tiền án:
- Bản án số 06/2019/HSST ngày 29/01/2019 của TAND huyện Y xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Bản án số 19/2019/HSST ngày 17/5/2019 của TAND huyện K xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 06 tháng tù tại Bản án số 06/2019/HSST ngày 29/01/2019 của TAND huyện Y, buộc N phải thi hành 12 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt ngày 18/2/2020 và đã nộp án phí của cả 02 bản án.
Tiền sự:
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 34 ngày 26/4/2021 của Công an huyện Y, xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”; Chưa thi hành xong.
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 50 ngày 24/5/2021 của Công an huyện Y, xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”. Chấp hành xong ngày 01/6/2021.
Lịch sử bản thân:
- Bản án số 62/2008/HSST ngày 14/11/2008 của TAND tỉnh Quảng Nam xử phạt 03 năm tù về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”; buộc N phải nộp án phí số tiền 735.000 đồng. Chấp hành xong hình phạt chính ngày 15/9/2010 và đã nộp án phí.
Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình kể từ ngày 16/02/2022 trong vụ án “Đánh bạc” xảy ra ngày 12/02/2022 tại xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình đến nay; có mặt.
- Bị hại: Chị Bùi Thị Ng; sinh năm 1981; trú tại: Xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Phạm Minh C; sinh năm 1989; trú tại: Thôn 20, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.
+ Chị Nguyễn Thị T; sinh năm 1988; trú tại: Xóm 9, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 23/01/2022, Nguyễn Văn N, trú tại xóm 9, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình điều khiển xe mô tô BKS: 35B2 - 841.30 đi từ nhà đến nhà anh Trần Văn H, sinh năm 1990, ở xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Trên đường đi, do không nhớ đường nên N vào nhà chị Bùi Thị Ng, sinh năm 1981, ở xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình để hỏi đường. Thấy cổng, cửa ra vào nhà chị Ng không khóa nên N đi vào trong phòng khách, lúc này chỉ có một mình chị Ng ở nhà và đang rửa bát ở gian bếp phía sau nhà. N quan sát thấy trên chiếu trải ở gian phòng khách, gần cửa ra vào có để 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A21s của chị Ng nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại này. Lợi dụng lúc không có ai, N dùng tay phải cầm lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần bên phải đang mặc rồi quay ra ngoài. Sau khi lấy trộm được chiếc điện thoại, N không tìm đường đến nhà anh H nữa mà quay về. Trên đường về nhà, N đã tháo 02 chiếc sim lắp trong máy điện thoại vừa trộm cắp được vứt ở dọc đường. Đến sáng ngày 12/02/2022, N đã mang chiếc điện thoại trộm cắp được đến quán điện thoại của anh Phạm Minh C, sinh năm 1989 ở Thôn 20, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình để bán, do không thoả thuận được giá nên N không bán mà ký gửi chiếc điện thoại chỗ anh C, lấy số tiền 1.800.000 đồng, hẹn hôm tối cùng ngày sẽ quay lại lấy điện thoại; số tiền này N đã tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 12/02/2022, tại xã K, huyện Y, N bị cơ quan CSĐT Công an huyện Y bắt quả tang về hành vi đánh bạc. Quá trình giải quyết vụ án Đánh bạc, N đã tự thú về hành vi trộm cắp chiếc điện thoại Samsung Galaxy A21s của chị Ng. Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với anh Phạm Minh C, anh C tự nguyện giao nộp 01 điện thoại Samsung Galaxy A21s, máy không lắp sim.
Tại Kết luận định giá tài sản số 07 ngày 24/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Y kết luận: Giá trị của chiếc điện thoại Samsung Galaxy A21s vỏ màu xanh mua mới năm 2021, tại thời điểm xảy ra vụ việc là 2.367.000 đồng.
Về vật chứng và tài sản thu giữ:
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX mang BKS: 35B2 - 841.30.
Quá trình điều tra, xác định chiếc xe thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1988, trú tại xóm 9, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình (chị dâu của N). Ngày 23/01/2022, N mượn chiếc xe mô tô của chị T nhưng không nói đi đâu, làm gì; chị T không biết N sử dụng chiếc xe để đi trộm cắp tài sản do đó cần trả lại chiếc xe cho chị T. Tuy nhiên, chiếc xe mô tô hiện đang bị thu giữ trong vụ án Đánh bạc xảy ra ngày 12/02/2022, tại xã Khánh M, huyện Y, nên không xem xét xử lý trong vụ án này.
- Đối với 01 điện thoại Samsung Galaxy A21s vỏ màu xanh thu của anh Phạm Minh C, đây là tài sản của chị Bùi Thị Ng nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Ng theo quy định pháp luật.
- Đối với 02 chiếc sim lắp trong điện thoại Samsung Galaxy A21s, quá trình điều tra xác định, sau khi lấy trộm được điện thoại của chị Ng, N đã tháo 02 sim điện thoại lắp trong máy, vứt ở dọc đường nên cơ quan điều tra không thu hồi được.
Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Nguyễn Văn N đã bồi thường cho anh Phạm Minh C số tiền 1.800.000 đồng, anh C không có yêu cầu, đề nghị gì khác. Sau khi nhận lại điện thoại, chị Ng không có yêu cầu, đề nghị gì đối với 02 chiếc sim lắp trong máy bị mất.
Quá trình điều tra, Nguyễn Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSYK ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N, ra trước Tòa án nhân dân huyện Y để xét xử về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N với mức án từ 6 tháng đến 9 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại số tiền mà gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường và đều không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Tại phiên tòa vắng mặt bị hại và Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, song lời khai có trong hồ sơ đã xác định việc bị mất tài sản và ký gửi tài sản như bị cáo khai nhận là đúng, bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về 02 chiếc sim điện thoại bị mất, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận tiền bồi thường, nên bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều không có yêu cầu gì khác.
Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì, nhận thấy hành vi phạm tội là đúng nên xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Y, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Trong quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, của người liên quan và sơ đồ hiện trường, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ ngày 23/01/2022, N điều khiển xe mô tô BKS: 35B2 - 841.30 đi từ nhà xuống nhà anh H ở xã K, huyện Y để chơi, khi đi đến nhà chị Ng ở xóm 8, xã K, thì N vào nhà chị Ng để hỏi đường đi. N thấy cổng và cửa ra vào nhà chị Ng không khóa, N đi vào nhà, lúc này ở nhà chỉ có một mình chị Ng và đang rửa bát ở gian bếp phía sau nhà. N quan sát thấy trên chiếu trải ở gian phòng khách, gần cửa ra vào có để 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A21s, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại này, do không thấy ai, N dùng tay phải cầm lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần bên phải đang mặc rồi quay ra ngoài. Sau khi lấy trộm được chiếc điện thoại, N không đi chơi nữa mà quay về. Trên đường về nhà, N đã tháo 02 chiếc sim lắp trong máy điện thoại vừa trộm cắp được vứt ở dọc đường. Đến sáng ngày 12/02/2022, N đã mang chiếc điện thoại này đến quán điện thoại của anh Phạm Minh C ở xã K, huyện Y để bán, do không thống nhất được giá nên N không bán mà ký gửi chiếc điện thoại tại cửa hàng cho anh C, lấy số tiền 1.800.000 đồng, rồi hẹn đến tối sẽ đến lấy lại điện thoại, sau đó N không lấy lại điện thoại, còn số tiền N đã tiêu xài cá nhân hết. Ngày 12/02/2022, N bị cơ quan CSĐT Công an huyện Y bắt quả tang về hành vi đánh bạc tại xã K. Quá trình giải quyết vụ án Đánh bạc, N đã tự khai nhận về hành vi trộm cắp chiếc điện thoại Samsung Galaxy A21s của chị Ng. Cơ quan điều tra làm việc với anh Phạm Minh C, anh C tự nguyện giao nộp 01 điện thoại Samsung Galaxy A21s, máy không lắp sim. Tại Kết luận định giá tài sản số 07 ngày 24/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Yên Khánh kết luận: Giá trị của chiếc điện thoại Samsung Galaxy A21s vỏ màu xanh mua mới năm 2021, tại thời điểm xảy ra vụ việc là 2.367.000 đồng.
Nội dung Điều 173 tội trộm cắp tài sản của Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
…… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn N đã lén lút chiếm đoạt tài sản có giá trị 2.367.000 đồng của chị Bùi Thị Ng nêu trên đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn huyện Y. Bị cáo N là người đã trưởng thành có đủ năng lực, nhận thức và điều khiển hành vi. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật, để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo N thực hiện hành vi phạm tội khi đang có tiền án về tội trộm cắp tài sản nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, do đó bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điiều 52 Bộ luật hình sự; bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Là trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động để gia đình bồi thường khắc phục hậu quả; người phạm tội tự thú, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, áp dụng đế giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, hiện tại bị cáo đang bị khởi tố vụ án và bắt tạm giam về tội đánh bạc, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, tương xứng với tính chất, hành vi của bị cáo, để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện của bị cáo thấy rằng gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và bản thân không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc điện thoại Samsung Galaxy A21s vỏ màu xanh, thu của anh C; đây là tài sản hợp pháp của chị Ng, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Ng là phù hợp với pháp luật.
Đối với 02 chiếc sim lắp trong điện thoại Samsung Galaxy A21s, quá trình điều tra xác định sau khi lấy trộm được điện thoại của chị Ng, trên đường về N đã tháo 02 sim điện thoại lắp trong máy, vứt ở dọc đường. Cơ quan điều tra không thu hồi được nên không đặt ra xem xét.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX mang BKS: 35B2 - 841.30.
Quá trình điều tra, xác định chiếc xe thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị T, trú tại xóm 9, xã K, huyện Y (chị dâu của N). Ngày 23/01/2022, N mượn chiếc xe mô tô của chị T nhưng không nói đi đâu, làm gì; chị T không biết N sử dụng chiếc xe để đi trộm cắp tài sản, do đó cần trả lại chiếc xe cho chị T. Tuy nhiên, chiếc xe mô tô hiện đang bị thu giữ trong vụ án Đánh bạc xảy ra ngày 12/02/2022, tại xã K, huyện Y, nên không xem xét xử lý trong vụ án này.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động để gia đình bồi thường cho anh C số tiền 1.800.000 đồng, anh C không có yêu cầu, đề nghị gì khác, chị Ng sau khi nhận lại điện thoại, chị không có yêu cầu bồi thường đối với 02 chiếc sim lắp trong máy bị mất, do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Bị cáo N là người thực hiện hành vi phạm tội, bị kết án phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày thi hành án.
2. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.\\ Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2022/HS-ST
Số hiệu: | 22/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về