TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Đức Huệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Trần Văn H (tên gọi khác: K) - Sinh năm 1983; tại: tỉnh Long An; Nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Long An; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn U và bà Lê Thị N; vợ tên Cao Thị T (đã ly hôn); tiền án: Ngày 15-10- 2019, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành án xong ngày 29-11-2020, về án phí chưa thi hành; tiền sự: không. Về nhân thân: Ngày 31-3-2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 25-5-2017, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20-12- 2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đức Huệ. (có mặt) - Người bị hại:
1. Ông Huỳnh Khắc M - Sinh năm 1947 - Địa chỉ: ấp O, xã B, huyện C, tỉnh Long An. (vắng mặt)
2. Ông Trương Văn L - Sinh năm 1965 - Địa chỉ: ấp Y, xã B, huyện C, tỉnh Long An. (vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Dương Thị E - Sinh năm 1960 - Địa chỉ: ấp S, xã B, huyện C, tỉnh Long An. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 18-12-2021 bị cáo H đi bộ ngang nhà ông M tại khu vực chợ Bà Mùi thuộc ấp 2, xã Mỹ Thạnh Bắc, huyện Đức Huệ, H nhìn thấy chiếc xe đạp của ông M đang để trước cửa nhà không ai trông coi nên vào lấy trộm. Sau đó, H đạp xe đến ngã 3 Ông Đường thuộc xã Mỹ Thạnh Bắc nhậu với bạn, đến khoảng 24 giờ cùng ngày H đạp xe đi trên đường tỉnh 838, đến Trường trung học cơ sở Mỹ Thạnh Bắc, thuộc ấp 4, xã Mỹ Thạnh Bắc, huyện Đức Huệ, H thấy một xe mô tô dựng trong nhà xe của trường học. H bỏ xe đạp và áo khoác ngoài cổng trường, đi bộ vào lấy trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu vàng-đen, biển số 62S1-021.11, xe không có chìa khóa nên H đẩy xe đến khu vực cầu kênh Tỉnh thì được một thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) đi xe mô tô đẩy giúp H đến cầu Đức Huệ. H tiếp tục dẫn bộ đến bến phà thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa và nằm ngủ tại đó. Đến khoảng 05 giờ 30 phút ngày 19-12-2021, H tiếp tục dẫn xe qua phà về ấp 1, xã Mỹ Thạnh Bắc, huyện Đức Huệ bán cho bà Dương Thị E với số tiền 600.000 đồng. Đến 15 giờ cùng ngày H bị Công an làm việc. Tại cơ quan Công an H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Tang vật thu giữ:
- 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu vàng - đen, biển kiểm soát 62S1-021.11 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe.
- 01 xe đạp cơ, màu bạc.
- 01 áo khoác vải màu xám nâu.
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen trắng đã qua sử dụng.
- Tiền Việt Nam: 117.000 đồng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 45/KL-HĐĐG ngày 20-12-2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đức Huệ, tại thời điểm định giá xe mô tô biển số 62S1- 021.11 có giá trị 3.000.000 đồng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐG ngày 15-02-2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đức Huệ, tại thời điểm định giá xe đạp có giá trị 400.000 đồng.
Xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Huệ đã trả lại chủ sở hữu hợp pháp xe đạp và xe mô tô.
Bản Cáo trạng số 11/CT-VKSĐH ngày 01 tháng 3 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ đã truy tố bị cáo Trần Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ sau khi phân tích tính chất của hành vi và hậu quả xảy ra, đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ: điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 3 năm đến 4 năm tù, về trách nhiệm dân sự, các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng đề nghị xem xét giải quyết theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo H tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các tài liệu, chứng cứ, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, kết luận định giá tài sản, có đủ cơ sở kết luận:
Vào ngày 18 và 19-12-2021, bị cáo Trần Văn H đã lén lút lấy trộm xe đạp của ông Huỳnh Khắc M và xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại SIRIUS, màu vàng - đen, biển số 62S1-021.11 của ông Trương Văn L. Giá trị hai chiếc xe là 3.400.000 đồng. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm vào lần xét xử ngày 15-10- 2019, chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạp nguy hiểm. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ truy tố đối với bị cáo H là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vì động cơ tư lợi, bị cáo cố tình thực hiện. Sau khi phát hiện có tài sản, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý rồi lén lút chiếm đoạt tài sản của họ. Hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp. Do đó cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
[6] Về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 31-3-2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 25-5-2017, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử thật thà khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, do đó khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[8] Từ những nhận định trên, xét hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.
[9] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.
[9] Các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
- Phần tang vật đã xử lý xong không đề cập xem xét.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen trắng đã qua sử dụng (bị cáo không yêu cầu nhận lại) và tiền Việt Nam 117.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 áo khoác vải màu xám nâu.
(Tang vật do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Huệ quản lý ).
[10] Về trách nhiệm dân sự: Ông M, ông L và bà E không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập xem xét.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 476, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
2. Tuyên bố bị cáo Trần Văn H (K) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
3. Xử phạt bị cáo Trần Văn H (K) 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 20-12-2021). Tiếp tục tạm giam bị cáo H 45 ngày để đảm bảo kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
4. Các biện pháp tư pháp:
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen trắng đã qua sử dụng và tiền Việt Nam 117.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 áo khoác vải màu xám nâu.
(Tang vật do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Huệ đang quản lý).
5. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 28-4-2022). Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2022/HS-ST
Số hiệu: | 22/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về