Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 25 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Đặng Thế K, sinh ngày 10/3/2000 tại huyện T, tỉnh B; nơi cư trú: thôn N, xã T, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Vĩnh C, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; Vợ, con: chưa; Tiền án: chưa; Tiền sự: có 01 tiền sự, ngày 18/12/2020, Đặng Thế K có hành vi Trộm cắp tài sản. Ngày 22/3/2021 bị Công an huyện T xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền 1.500.000 đồng. Ngày 08/6/2021 chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/11/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Phan Vinh S, sinh năm 1966 (có đơn vắng mặt); Trú tại: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bình Đ.

+ Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1946 (vắng mặt);

+ Hồ Anh S, sinh năm 1951 (vắng mặt);

+ Võ Thị B, sinh năm 1952 (vắng mặt);

Đồng trú tại: thôn N, xã T, huyện T, tỉnh B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Nguyễn Thị H, sinh năm 1980 (có mặt); Trú tại: thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Bình Đ.

+ Nguyễn Thị L, sinh năm 1975 (vắng mặt); Trú tại: thôn H, xã B, huyện T, tỉnh B.

- Người làm chứng:

+ Lê Diệp Trí T, sinh năm 1996 (vắng mặt);

Người giám hộ: Lê Công Th, sinh năm 1971 (vắng mặt);

Đồng trú tại: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh B.

+ Nguyễn Văn Ph, sinh năm 2000 (vắng mặt); Trú tại: thôn Th, xã T, huyện T, tỉnh B.

+ Nguyễn Trung T, sinh năm 1963 (vắng mặt);

+ Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1985 (có mặt);

Đồng trú tại: thôn , xã Tây G, huyện T, tỉnh B.

+ Phạm Thị Mỹ V, sinh năm 1978 (có mặt); Trú tại: thôn N, xã T, huyện T, tỉnh B.

+ Phạm Đình Tr, sinh năm 1974 (vắng mặt); Trú tại: thôn H, xã B, huyện T, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/03/2021, Đặng Thế K, sinh năm 2000, ở thôn N – xã T – huyện T – tỉnh B bị Công an huyện Tây Sơn xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền 1.500.000 đồng. Ngày 08/6/2021 bị cáo K chấp hành xong, trong thời gian chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, từ tháng 08/2021 đến tháng 11/2021, K đã nhiều lần thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản tại địa bàn xã T – huyện T – tỉnh B, cụ thể như sau:

* Vụ thứ nhất: Vào khoảng 07 giờ ngày 23/8/2021, K điều khiển xe mô tô gắn biển số: 77H1 – 306.76 đi đến nhà Nguyễn Văn Ph, sinh năm 2000, ở thôn Th – xã T – huyện T – tỉnh B để mua 01 bịch cỏ mỹ với số tiền 100.000 đồng đem về nhà sử dụng một phần, phần còn lại K cất dưới ghế gỗ ở phòng khách của nhà K. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, K gặp Lê Diệp Trí T - 1996, ở thôn T – xã T – huyện T – tỉnh B, T gọi K: “Có cỏ mỹ không?”, thì K trả lời: “Có”. Nghe vậy, T ngồi lên xe, K chở T về nhà K lấy cỏ mỹ mang đến đám keo gần đập “Lỗ Môn” thuộc thôn Th – xã T – huyện T – tỉnh B sử dụng. Trong lúc ngồi sử dụng cỏ mỹ, K nhìn thấy 01 đầu bơm nước của ông Phan Vinh S - 1966, ở thôn Th – xã T đang đặt ở trên bờ mương cách cầu đập Lỗ Môn 100m về hướng đông để bơm nước nên K nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền. Sau khi sử dụng xong cỏ mỹ, K rủ T trộm cắp máy bơm thì T đồng ý. K đi ra vị trí xe mô tô lấy 02 cờ lê, 01 cây kéo, 01 cây kiềm trong cốp xe rồi quay lại vị trí đặt đầu bơm nước, dùng kiềm tháo rời 03 ốc chân ra khỏi bộ bơm rồi T vác đầu bơm ra vị trí xe, K thấy 01 Piston đang bỏ gần đó nên lấy đi ra vị trí xe. Trên đường đi qua trại của ông Phan Vinh S thì bị phát hiện, hô hoán nên K ra xe bỏ trốn thoát còn T bị giữ lại. Sau đó, Ông S trình báo sự việc trên cho Cơ quan Công an. Sau đó, Công an triệu tập bị cáo K và T lên làm việc, K và T đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.

Ngày 08/9/2021, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Tây Sơn, kết luận:

+ 01 (Một) đầu bơm nước, ký hiệu: Cao áp – TB – 155, đầu bơm cao 40cm, dài 45 cm, phía trên đầu bơm có ống tròn đường kính: 04cm, phía dưới đầu bơm có ống tròn (hút nước) đường kính 07cm, được làm bằng kim loại, có các vết ố vàng, rỉ sét có giá trị thiệt hại là 187.000 đồng.

+ 01 (Một) Piston làm bằng kim loại, vỏ ngoài rỉ sét, kích thước dài 19cm, đầu đường kính Piston: 9,5cm, đuôi Piston đường kính: 07cm, không còn sử dụng được có giá trị thiệt hại là 17.000 đồng.

* Vụ thứ hai: Khoảng 10 giờ ngày 22/9/2021, Đặng Thế Kiệt một mình đi bộ đến đến nhà ông Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1946, ở thôn N – xã T – huyện T – tỉnh B để mượn xe đi mua cỏ mỹ. Khi đến nhà ông Th thấy không có ai ở nhà, K nhìn thấy trên hè nhà ông Th có dựng 01 xe mô tô nhãn hiệu: FUSACO, loại xe:

Nữ, màu đỏ - đen – bạc, gắn biển số: 64H2 – 8619. Vì trước đó K hay qua chơi nên biết ông Th thường để chìa khóa xe trên đầu giường ngủ và cửa ra vào bên hông nhà ông Th chỉ đóng khép, không khóa nên nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô trên. K mở cửa vào lấy chìa khóa ra xe nổ máy điều khiển xe đến thôn H – xã B – huyện T – tỉnh B vào tiệm mua bán phế liệu của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1975 bán xe mô tô vừa trộm cắp được với giá 700.000đ. Sau đó, K dùng số tiền này tiêu xài cá nhân hết 500.000đ, còn 200.000đ K cất giữ. Đến 16 giờ cùng ngày, K bị Công an triệu tập lên làm việc, đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và giao nộp số tiền 200.000 đồng còn lại cho Cơ quan Công an.

Tiền Việt Nam đồng: 200.000 đồng. Đã niêm phong và nộp vào kho bạc nhà nước huyện Tây Sơn.

Ngày 07/10/2021, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Tây Sơn, kết luận: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu: FUSACO, loại xe: Nữ, màu sơn: đỏ - đen – bạc, gắn biển số: 64H2 – 8619, số máy: 2FMHF-201364, số khung:

2UM7K-201364 có giá trị thiệt hại là 2.500.000 đồng.

Sau khi thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản trên, Kiệt bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” kể từ ngày 30/9/2021 nhưng đến ngày 16/11/2021, K tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như sau:

* Vụ thứ ba: Vào khoảng 05 giờ ngày 16/11/2021, Đặng Thế K điều khiển xe mô tô gắn biển số: 77H1 – 306.76 trên đường đi về nhà thì gặp vợ chồng ông Hồ Anh S, sinh năm 1951 và bà Võ Thị B, sinh năm 1952 ở cùng địa phương đi chợ. K biết nhà ông S hiện không có ai ở nhà nên nảy sinh ý định đột nhập vào nhà ông S trộm cắp tài sản. K điều khiển xe mô tô đi về nhà cất rồi đi bộ đến nhà ông S dùng tay giật mạnh cánh cửa ra vào phòng sinh hoạt chung nằm ở phía đông ngôi nhà nhiều lần làm bung chốt then cài phía trên rồi đẩy cửa đi vào. Khi vào phòng này, K thấy có 01 tủ đứng làm bằng gỗ đặt ở góc tường phía tây nên đến mở cánh cửa tủ bên trái, không khóa thì phát hiện bên trong để nhiều bình rượu nên không tìm kiếm tài sản. K thấy cửa tủ bên phải bị khóa nên dùng tay kéo mạnh nhiều lần làm bung chốt khóa rồi lục lọi tìm kiếm tài sản nhưng không thấy tài sản gì. Tiếp tục, K đi qua phòng ngủ không khóa cửa lục túi quần Jean lửng đang treo trên cánh cửa thì thấy có 50.000 đồng nên lấy cất vào trong túi quần sau bên phải. K tiếp tục đi qua phòng ngủ bên cạnh, thấy phòng ngủ này có khóa cửa nên quay lại phòng ngủ ban đầu lấy 01 cây đao cán dài nhưng vì thấy lưỡi yếu nên để trên tấm phản gỗ phòng sinh hoạt rồi quay lại phòng ngủ lấy 01 cây giáo, dùng mũi giáo chọt vào khung cửa với ổ khóa đẩy mạnh xuống làm đứt lìa dây sắt nối khung cửa với ổ khóa, để cây giáo tại tấm phản gỗ phòng sinh hoạt rồi vào phòng phát hiện góc tường phía tây nam có để 01 túi xách nhựa, K mở khóa ra thì thấy có 01 túi vải màu cam, bên trong có 01 con heo bằng nhựa, màu xanh dương. K cầm con heo nhựa trên đi ra ngoài phòng. Khi đi đến cửa ra vào phòng ngủ này thì thấy gần cửa có 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ, bên trên có đặt một chiếc gối, trên gối có 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu: OPPO A3S, màu đỏ đang cắm sạc. K rút dây sạc ra rồi lấy điện thoại trên bỏ vào túi quần trước, bên phải đang mặc trên người rồi đi ra ngoài. Tại phòng sinh hoạt chung, trên phản gỗ, bị can K lấy 01 cây kéo cắt con heo bằng nhựa lấy hết số tiền có bên trong cất vào túi quần trước bên phải đang mặc trên người rồi vứt con heo nhựa và kéo lại nhà ông S rồi đi theo lối cũ về nhà. Tại nhà, K đếm lại số tiền đã trộm cắp tại nhà ông S được 1.755.000 đồng, kiểm tra điện thoại thì thấy điện thoại có 01 sim điện thoại và không cài mật khẩu. K cất giấu điện thoại vừa trộm cắp được ở dưới thùng phi tại nhà dưới. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, K một mình điều khiển xe mô tô biển số: 77H1 – 306.76 đi đến khu vực cầu Bà Di thuộc huyện T – tỉnh B gặp một người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) mua 07 bịch cỏ mỹ với giá 500.000 đồng rồi về nhà cất số tiền còn lại là 1.255.000 đồng ở dưới giường ngủ và 07 bịch cỏ mỹ ở thùng giấy trong phòng ngủ của mẹ K. Đến 12 giờ 30 phút cùng ngày, Công an huyện Tây Sơn phối hợp với Công an xã Tây Giang tiến hành triệu tập bị cáo K lên làm việc. Quá trình làm việc, bị can K đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Ngày 01/12/2021, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Tây Sơn, kết luận: 01 (Một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO A3S, màu đỏ, số Imei 1: 866615041113836, số Imei 2: 866615041113828 có giá trị thiệt hại là 1.200.000 đồng.

Ngày 29/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tây Sơn đã có Quyết định trưng cầu giám định số 108/CSĐT trưng cầu giám định chất ma túy. Ngày 07/01/2022, Phân viện khoa học hình sự tại TP. Đà Nẵng, kết luận: Mẫu thực vật khô màu xanh (đã cắt nhỏ) trong 07 (bảy) túi ni lông màu xanh gửi giám định đều không tìm thấy chất ma túy; tổng khối lượng mẫu thực vật khô là 17,56gam.

Quá trình điều tra bị hại Phan Vinh S và Nguyễn Hữu Th đã nhận lại được các tài sản bị trộm, không có yêu cầu bồi thường dân sự gì. Bị hại Hồ Anh S và Võ Thị B đã nhận lại 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO A3S và số tiền 1.255.000 đồng, gia đình bị cáo K cũng bồi thường số tiền 500.000 đồng, ông S, bà B không có yêu cầu bồi thường dân sự gì thêm. Bà Nguyễn Thị L không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 700.000 đồng và bồi thường gì.

Tại Bản cáo trạng số 12/CT – VKSTS ngày 25/02/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đã truy tố bị cáo Đặng Thế K về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Thế K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm g, i Khoản 1 Điều 52; điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Thế K mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường xong cho người bị hại, người bị hại đã nhận lại tài sản. Các đương sự không yêu cầu bồi thường gì nên đề nghị miễn xét.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy tang vật vụ án, không còn giá trị sử dụng:

07 (bảy) túi nhựa màu xanh; 01 (một) áo sơ mi, 01 (một) quần sọt của bị cáo Đặng Thế Kiệt (bị cáo không yêu cầu nhận lại).

Đối với số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng là tiền do bị cáo phạm tội mà có. Do đó, đề nghị tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội cũng như đề nghị giải quyết vụ án của vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và Điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện:

Vì để có tiền tiêu xài cá nhân, mua cỏ mỹ sử dụng nên bị cáo Đặng Thế K đã nảy sinh việc trộm cắp tài sản của người khác. Bị cáo đã có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, ngày 22/3/2021 đã bị Công an huyện Tây Sơn xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000đ, đã nộp phạt xong vào ngày 08/6/2021 nhưng trong thời gian chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính từ tháng 8/2021 đến tháng 11/2021 bị cáo K lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần trên địa bàn xã T, huyện T. Cụ thể: Ngày 23/08/2021, bị cáo K cùng Lê Diệp Chí T đã lén lút chiếm đoạt của ông Phan Vinh S ở thôn Th, xã T, huyện T 01 (một) đầu máy bơm nước và 01 (một) piston có tổng giá trị 204.000 đồng; Ngày 22/9/2021, bị cáo K lén lút chiếm đoạt của ông Nguyễn Hữu Th ở thôn N, xã T, huyện T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu: FUSACO, màu sơn đỏ - đen - bạc, gắn biển số: 64H2 – 8619 có giá trị 2.500.000 đồng; Ngày 16/11/2021, bị cáo K lén lút chiếm đoạt của ông Hồ Anh S, bà Võ Thị B ở thôn N, xã T, huyện T số tiền 1.755.000 đồng và một điện thoại di động OPPO A3S có giá trị 1.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo K đã chiếm đoạt là 5.659.000 (Năm triệu sáu trăm năm mươi chín nghìn) đồng. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đặng Thế K phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn truy tố là có căn cứ.

[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo Đặng Thế K là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân trên địa bàn. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 02 tình tiết tăng nặng: phạm tội 02 lần trở lên; phạm tội đối với người ông Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1946 là người đủ 70 tuổi trở lên được quy định tại điểm g, i Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường xong cho người bị hại; người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc của khung hình phạt như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và được bồi thường xong; các bên đương sự không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6.1] Tịch thu tiêu hủy:

- 07 (bảy) túi nhựa màu xanh, kích thước (7x10) cm, được hàn kín, bên trong có chứa đồ vật không xác định. Vật chứng này đã được dán kín niêm phong trong 01 (một) phong bì, có đóng 02 (hai) hình dấu tròn, giáp lai của Phân viện khoa học hình sự thành phố Đà Nẵng, có chữ ký và chữ viết ghi rõ họ tên giáp lai của của Nguyễn Minh L và Trần Thị D. Mặt trước phong bì có ghi chữ và số: “BỘ CÔNG AN – VIỆN KHOA HỌC HÌNH SỰ, số 1631/C09C-Đ2; Kính gửi: Cơ quan CSĐT Công an huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định (Mẫu vật hoàn trả).

- 01 (một) áo sơ mi bằng vải dài tay, màu đen, có hoa văn hình ngôi sao, hình tròn màu trắng (Đã qua sử dụng).

- 01 (một) quần sọt vải kaki, màu xanh xám (Đã qua sử dụng).

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/3/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Sơn và Công an huyện Tây Sơn).

[6.2] Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng là tiền bị cáo do phạm tội mà có, theo biên bản giao nhận tài sản số 01/2022-BBBG-CSĐTCATS ngày 04/01/2022 giữa Kho bạc nhà nước huyện Tây Sơn và Công an huyện Tây Sơn.

[7] Đối với Lê Diệp Trí T có hành vi tham gia cùng bị cáo K thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị là 204.000 đồng vào ngày 23/8/2021. Tuy nhiên, T chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản. Trước đó, vào ngày 07/7/2021, Tài có hành vi trộm cắp tài sản tại thôn Th – xã T – huyện T– tỉnh B. Quá trình điều tra, T được đưa đi Trưng cầu giám định pháp y tâm thần, kết luận Tài bị bệnh tâm thần phân liệt thể không biệt định, tại thời điểm gây án và hiện nay bị mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên hành vi của T không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

[8] Đối với Nguyễn Văn Ph có hành vi bán cỏ mỹ cho bị cáo K sử dụng. Quá trình điều tra không thu được cỏ mỹ nên không có mẫu vật để phục vụ trưng cầu giám định chất ma túy có trong cỏ mỹ nên không có cơ sở để xử lý.

[9] Đối với hành vi của bà Nguyễn Thị L, khi mua xe mô tô biển số: 64H2 – 8619 vào ngày 22/9/2021, bà L không biết xe mô tô trên là tài sản do trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý.

[10] Đối với bà Nguyễn Thị H, là mẹ của bị cáo K, chủ xe mô tô biển số 77H1- 306.76 không biết bị cáo K sử dụng xe mô tô trên để thực hiện hành vi phạm tội nên không có cơ sở để xử lý.

[11] Đối với hành vi tàng trữ bảy bịch cỏ mỹ của Đặng Thế K, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tây Sơn tiến hành Trưng cầu giám định chất ma túy, kết quả: Mẫu thực vật khô màu xanh (đã cắt nhỏ) trong bảy túi ni lông màu xanh đều không tìm thấy chất ma túy nên không có cơ sở để xử lý.

[12] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đặng Thế K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm g, i Khoản 1 Điều 52; điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Đặng Thế K 09 (Chín) tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16/11/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Các bên đương sự không yêu gì nên miễn xét.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

3.1. Tịch thu tiêu hủy:

+ 07 (bảy) túi nhựa màu xanh, kích thước (7x10) cm, được hàn kín, bên trong có chứa đồ vật không xác định. Vật chứng này đã được dán kín niêm phong trong 01 (một) phong bì, có đóng 02 (hai) hình dấu tròn, giáp lai của Phân viện khoa học hình sự thành phố Đà Nẵng, có chữ ký và chữ viết ghi rõ họ tên giáp lai của của Nguyễn Minh Luân và Trần Thị Dung. Mặt trước phong bì có ghi chữ và số: “BỘ CÔNG AN – VIỆN KHOA HỌC HÌNH SỰ, số 1631/C09C-Đ2; Kính gửi: Cơ quan CSĐT Công an huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định (Mẫu vật hoàn trả).

+ 01 (một) áo sơ mi bằng vải dài tay, màu đen, có hoa văn hình ngôi sao, hình tròn màu trắng (Đã qua sử dụng).

+ 01 (một) quần sọt vải kaki, màu xanh xám (Đã qua sử dụng).

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/3/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Sơn và Công an huyện Tây Sơn).

3.2. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, theo biên bản giao nhận tài sản số 01/2022-BBBG-CSĐTCATS ngày 04/01/2022 giữa Kho bạc nhà nước huyện Tây Sơn và Công an huyện Tây Sơn.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Thế K phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định.

6. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2022/HS-ST

Số hiệu:22/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về