TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2022/TLHS-ST ngày 4 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
Võ Thành Bảo N, sinh ngày 29 tháng 3 năm 1997 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 89 phường Q, quận T, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; ; Trình độ học vấn:
12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Con ông Võ Thành C (s) và bà Phạm Thị H (s). Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Có vợ là Lê Trương Mỹ M (sinh năm 1997) và có 01 con sinh năm 2020.
Tiền án: Ngày 26/3/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chưa chấp hành án.
Tiền sự: Không; Nhân thân:
- Ngày 13/4/2015, bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”
- Ngày 24/7/2019, bị Công an quận Sơn Trà xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 27/11/2021; Tạm giam ngày 3/12/2021. Có mặt.
- Bị hại
1. Ông Steve C, sinh năm:1984; Quốc tịch: El Salvador. Nơi cư trú tại Đà Nẵng, Việt Nam: căn hộ số 11 Đ 2, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng. Ủy quyền cho ông Đặng Văn B- Cán bộ Trung tâm Phục vụ đối ngoại thành phố Đà Nẵng tham gia tố tụng theo Giấy ủy quyền ngày ngày 17/01/2022. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bà Chao J, sinh ngày: 05/7/1992, Quốc tịch Trung Quốc; Nơi cư trú tại Đà Nẵng, Việt Nam: Lô 01 đường K, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng. Ủy quyền cho Bà Dương Minh T - Cán bộ Trung tâm Phục vụ đối ngoại thành phố Đà Nẵng tham gia tố tụng theo Giấy ủy quyền ngày ngày 17/01/2022. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
-Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan:
1.Anh Lê Ngọc H , sinh năm: 1990; Trú: Tổ 80, phường Q, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
2. Chị Lê Trương Mỹ M, sinh năm: 1997; Trú tại: Tổ 89, phường Q, quận T, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
3. Ông Lê Tấn K, sinh năm: 1970; Trú: Tổ 89, phường Q, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên trong tháng 11/2021, Võ Thành Bảo N đã lợi dụng sơ hở 02 lần đột nhập vào nhà người khác trộm cắp tài sản, cụ thể:
Lần thứ nhất: Khoảng giữa tháng 11/2021, Võ Thành Bảo N đã trèo qua cửa sổ tầng 2 căn hộ số 11 Đ2, phường M, quận S do ông Steve C thuê, trộm cắp 01 máy tính xách tay hiệu Dell màu đen, 01 cái Ipad hiệu APPEL AIR 2 màu bạc và 01 cái Ipaid hiệu APPEL AIR 2 màu vàng. Sau đó, N đem bán máy tính xách tay và Ipad hiệu APPEL AIR 2 màu bạc cho Lê Ngọc H lấy 7.000.000 đồng; bán Ipad hiệu APPEL AIR 2 màu vàng cho 1 người đàn ông (không xác định họ tên, địa chỉ) lấy 2.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá tài sản số 27/KL-HĐĐGTTS ngày 23/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Nẵng kết luận:
- Đối với 02 cái Ipad hiệu APPEL AIR 2 giá trị còn lại (2 máy x 8.200.000 đồng/chiếc) x 80% là 13.120.000 đồng.
- Đối với 01 cái Laptop nhãn hiệu Dell do bị hại không cung cấp được hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, mặt khác không có tài sản thực tế nên không xác định được loại máy xách tay, năm sản xuất và tình trạng chất lượng còn lại của tài sản nên hội đồng không có cơ sở để định giá.
Giá trị tài sản N chiếm đoạt của ông Steve C là 13.120.000 đồng.
Lần thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 25/11/2021, N điều khiển xe mô tô Yamaha biển kiểm soát 43E1-351.97 đi từ xưởng làm đá bê tông của gia đình, số 88 Nguyễn Huy C thuộc tổ 13, phường T, quận T đến quận Ngũ Hành S để trộm cắp tài sản. Khi đi đến tại ngôi nhà 2 tầng Lô 01 đường K, phường M, quận S do chị Chao J thuê thì N phát hiện cửa nhà vệ sinh không đóng nên để xe ở dưới cầu Tuyên Sơn rồi trèo qua tường rào đột nhập vào từ phía sau ngôi nhà. Sau đó, N đi lên tầng 2 vào phòng ngủ trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI màu trắng, 01 tờ tiền mệnh giá 100 USD (Đô la Mỹ), 02 tờ tiền mệnh giá 100 HKD (Đô la Hồng Kông) và 6.000.000 đồng rồi theo lối vào lúc đầu đi ra lấy xe và đem tài sản trộm cắp được cất giấu tại xưởng làm đá bê tông tại số 88 Nguyễn Huy C. Đến 07 giờ 30 phút cùng ngày, N đem điện thoại trộm cắp được bán cho anh Lê Ngọc H lấy 10.000.000 đồng, đem 02 tờ tiền Đô la Hồng Kông đến tại một tiệm vàng gần chợ T, quận T đổi được 600.000 đồng. Với số tiền trộm cắp được cùng với số tiền bán điện thoại, tổng cộng là 16.600.000 đồng, N đem đổi 05 tờ tiền mệnh giá 100 USD hết 11.500.000 đồng cất giữ trong người, N đưa cho vợ là chị Lê Trương Mỹ M 01 tờ tiền mệnh giá 100 USD và 4.700.000 đồng, số tiền còn lại N tiêu xài cá nhân.
Chiều ngày 27/11/2021, N bị lực lượng tuần tra Công an thành phố Đà Nẵng kiểm tra phát hiện và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp như trên.
Tang, tài vật thu giữ: 01 xe mô tô Yamaha biển kiểm soát 43E1-351.97; 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI màu trắng; 01 hợp đồng mua bán điện thoại giữa Lê Ngọc H và N vào ngày 27/11/2021 và 06 tờ tiền mệnh giá 100 USD.
Tại Kết luận định giá số 215 ngày 22/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Nẵng kết luận: Giá trị của điện thoại di động hiệu XIAOMI là 18.810.000 đồng.
Theo Công văn số 01/ĐAN-TTGSNH ngày 04/01/2022 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chi nhánh thành phố Đà Nẵng cung cấp tỷ giá ngoại tệ, cụ thể:
1. Theo thông tin công bố tại website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam (VND) so với Đô la Mỹ (USD) vào ngày 25/11/2021 như sau: 01 USD = 23.147 VND.
2. Theo thông tin công bố tại website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ giá tính chéo của đồng Việt Nam (VND) so với Đô là Hồng Công (HKD) có hiệu lực từ ngày 25/11/2021 đến ngày 01/12/2021 như sau: 01 HKD = 2.969.57 VND.
Như vậy, 1 USD vào ngày 25/11/2021 là 23.147 VND, 100 USD tương đương là 2.314.700 VND; 01 HKD vào ngày 25/11/2021 là 2.969.57 VND, 200 HKD tương đương là 593.914 VND.
Giá trị tài sản N chiếm đoạt của chị Chao J là 27.718.000 đồng. Tổng giá trị tài sản N đã chiếm đoạt của hai bị hại là 40.838.000đ.
Bản cáo trạng số 22/CT-VKS-P2 ngày 01/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Võ Thành Bảo N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng giữ quyền công tố Nhà nước giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Võ Thành Bảo N đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm b, r, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Thành Bảo N mức án từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Về trách nhiệm dân sự:
Võ Thành Bảo N đã tác động gia đình bồi thường cho chị Chao J 6.600.000 đồng; bồi thường cho ông Steve C 18.120.000 đồng. Các bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đề cập đến. .
Về xử lý tang, tài vật:
- Đề nghị trả lại cho bị cáo 05 tờ tiền mệnh giá 100 USD đã chuyển Kho bạc nhà nước thành phố Đà Nẵng bảo quản, chờ xử lý.
- Đối với 01 xe mô tô Yamaha biển kiểm soát 43E1-351.97, qua điều tra xác định do ông Lê Tấn K ( là bố vợ của N) đứng tên chủ sở hữu. Việc N lấy xe đi trộm cắp ông K hoàn toàn không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông K.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI màu trắng và 01 tờ tiền mệnh giá 100 USD là tài sản mà N trộm cắp nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Chao J.
- Đối với 01 hợp đồng mua bán điện thoại giữa Lê Ngọc H và Võ Thành Bảo N vào ngày 27/11/2021, lưu giữ theo hồ sơ vụ án.
Bị cáo Võ Thành Bảo N thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
[2] Qua xem xét lời khai của bị cáo Võ Thành Bảo N trong quá trình điều tra và tại phiên toà; Lời khai của bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án; Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Trong tháng 11/2021, trên địa bàn quận S, thành phố Đà Nẵng, Võ Thành Bảo N lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của bị hại, đã có hành vi lén lút thực hiện 2 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể: Trộm cắp của chị Chao J 100 USD (Đô la Mỹ), 02 tờ tiền mệnh giá 100 HKD (Đô la Hồng Kông) và 6.000.000 đồng; Trộm cắp của ông Steve C 01 máy tính xách tay hiệu Dell màu đen, 01 cái Ipad hiệu APPEL AIR 2 màu bạc và 01 cái Ipad hiệu APPEL AIR 2 màu vàng. Tổng giá trị tài sản N chiếm đoạt là 40.838.000 đồng, đem bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn công cộng tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, trong thời gian chờ chấp hành hình phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án Hình sự sơ thẩm số 25/2021/HSST ngày 26/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng thì lại phạm tội mới; Năm 2015 bị cáo cũng đã từng bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”; Năm 2019 bị công an quận Sơn Trà xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân.Trong vụ án này bị cáo phạm tội 2 lần trở lên và thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[4] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, tự khai báo ra lần phạm tội trước đó khi chưa bị phát hiện; thành khẩn khai báo; đại diện theo ủy quyền của bị hại đều có yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, r, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho các bị cáo khi lượng hình.
[5] Quyết định hình phạt: Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội; căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã phân tích, nhận định ở trên, Hội đồng xét xử thống nhất với ý kiến của Kiểm sát viên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo được cải tạo, giáo dục trở thành công dân tốt đồng thời răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
Ngoài việc chấp hành hình phạt của Bản án này, bị cáo còn phải chấp hành hình phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 25/2021/HSST ngày 26/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, được trừ đi 02 tháng 20 ngày bị tạm giam trước đây, còn lại 03 tháng 10 ngày tù bị cáo phải chấp hành.
Căn cứ Điều 56 Bộ Luật hình sự, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án (Bản án này và Bản án số 25/2021/HSST ngày 26/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng),
[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, Võ Thành Bảo N đã tác động gia đình bồi thường cho chị Chao J 6.600.000 đồng; bồi thường cho ông Steve C 18.120.000 đồng. Tại phiên tòa hôm nay những người đại diện theo ủy quyền của bị hại vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện họ không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 xe mô tô Yamaha biển kiểm soát 43E1-351.97, qua điều tra xác định do ông Lê Tấn K (là bố vợ của N) đứng tên chủ sở hữu. Việc N lấy xe đi trộm cắp ông K hoàn toàn không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông K, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI màu trắng và 01 tờ tiền mệnh giá 100 USD là tài sản mà N trộm cắp nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Chao Junyan.
- Đối với 01 hợp đồng mua bán điện thoại giữa Lê Ngọc H và Võ Thành Bảo N vào ngày 27/11/2021, hiện đang lưu giữ theo hồ sơ vụ án, xét thấy cần tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án.
- Đối với 05 tờ tiền mệnh giá 100 USD, xét thấy đây là tiền bị cáo N mang đổi từ số tiền trộm cắp tài sản mà có, tuy nhiên trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường đầy đủ thiệt hại cho các bị hại, các bị hại không yêu cầu gì thêm nên căn cứ Điều 46 BLHS, Điều 106 BLTTHS Hội đồng xét xử trả lại số tiền này cho bị cáo Võ Thành Bảo N.
Số tiền này hiện nay Kho bạc Nhà nước thành phố Đà Nẵng quản lý theo Biên bản giao nhận tài sản số 02/2022/BBGN-KBĐN ngày 31/3/2022.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố: Bị cáo Võ Thành Bảo N phạm tội “Trộm cắp tài sản” - Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Võ Thành Bảo N 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Căn cứ Điều 56 của Bộ luật hình sự;
Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án (Bản án này và Bản án số 25/2021/HSST ngày 26/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng) là 01 (một) năm 03 (ba) tháng 10 (mười) ngày tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 27/11/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tuyên:
- Trả lại cho bị cáo Võ Thành Bảo N 05 tờ USD mệnh giá 100 USD.
Số tiền này hiện nay Kho bạc Nhà nước thành phố Đà Nẵng quản lý theo Biên bản giao nhận tài sản số 02/2022/BBGN-KBĐN ngày 31/3/2022 giữa Điều tra viên Nguyễn Văn D (cơ quan CSĐT công an thành phố Đà Nẵng) và Phó giám đốc Nguyễn Văn T (Kho bạc nhà nước Đà Nẵng).
3. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Báo cho bị cáo, người liên quan có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản sao bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2022/HS-ST
Số hiệu: | 22/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về