TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 21/2023/HS-ST NGÀY 04/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:
- Bị cáo thứ nhất: Nguyễn Khánh L, sinh năm 1997 tại Cà Mau. Nơi cư trú: Ấp TH, xã TP, huyện CN, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: tài xế Grab; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; vợ: Trần Thị Ánh N (đã ly hôn); con: 2 người; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ kể từ ngày 11/4/2023 cho đến nay (có mặt).
- Bị cáo thứ hai: Nguyễn Thanh K, sinh ngày 11/7/2006 tại Cà Mau. Nơi cư trú: Ấp 8, xã NP, huyện UM, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1983 và bà Võ Thị T, sinh năm 1984; Tiền án: Không; tiền sự: Ngày 18/8/2022 bị Uỷ ban nhân dân xã THĐ, huyện Cái Nước xử phạt số tiền 1.250.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong. Ngoài ra, ngày 30/9/2020 bị công an Huyện Thới Bình xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong. Ngày 25/8/2022 bị cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu khởi tố về tội trộm cắp tài sản (chưa xét xử). Bị cáo bị bắt tạm giữ kể từ ngày 11/4/2023 cho đến nay (có mặt).
- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo K là chị Võ Thị T, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp 8, xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo là ông Trần Hoàng H là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Bị hại: Anh Huỳnh Văn H, sinh năm 1969. Địa chỉ: Ấp TLB, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào chiều ngày 31/3/2023, Nguyễn Thanh K đến bãi xe Grab (thuộc địa bàn thành phố Cà Mau) nơi Nguyễn Khánh L đang làm việc để rủ rê L cùng đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì được L đồng ý.
Đến khoảng 08 giờ ngày 01/04/2023, L điều khiển xe máy hiệu Exciter, biển số 69E1-xxxxx chở K đi từ thành phố Cà Mau đến địa bàn huyện Đầm Dơi để tìm tài sản lấy trộm. Khi đang chạy dọc theo tuyến đường lộ bê tông thuộc ấp TLB, xã TT, huyện ĐD thì cả hai phát hiện nhà ông Huỳnh Văn H không có người trông coi nên nảy sinh ý định đột nhập vào nhà lấy trộm tài sản. Để thực hiện hành vi, L và K dừng xe đậu ngoài lộ rồi đi vào khu vực nhà trước, K dùng tay giật mạnh thì cánh cửa nhà trước bung ra nên K mở được cửa và cùng L đi vào bên trong nhà. K vào trong phòng ngủ (cửa phòng không khoá) tìm kiếm, lục lọi và lấy được các tài sản gồm: 02 nhẫn hột xoàn (01 nhẫn có hình mặt tròn, 01 nhẫn có hình mặt vuông), 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng và 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng (tất cả là vàng giả) để trong tủ nhựa; số tiền 800.000 đồng để trong con heo nhựa; số tiền 1.250.000 đồng để trong các túi áo khoác treo trên sào quần áo. Tất cả các tài sản này K cất giữ ở túi quần phía sau. Còn L đi xuống khu vực nhà sau phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu trắng vàng để trên bộ ván nên lấy bỏ vào túi quần. Quá trình lục lọi, tìm kiếm tài sản K phát hiện bên trong phòng ngủ có 01 két sắt nên kêu L dùng chăn, mền lót phía dưới két sắt rồi cùng nhau kéo ra để trước cửa phòng ngủ. Tiếp đến, K và L đi xuống khu vực nhà sau lấy dao, búa để đem lên cạy két sắt nhưng không mở được nên cả hai điều khiển xe máy đi đến tiệm bán đồ sắt Nguyễn K ở ấp CK, xã AP, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu mua 02 cây xè beng với số tiền 80.000 đồng. Sau đó, L và K điều khiển xe máy quay trở lại nhà anh H dùng xà beng cạy bung két sắt, L lục lọi lấy 01 đôi bông tai bỏ vào túi quần, K lấy số tiền 150.000 đồng được đựng trong 03 bao lì xì bỏ vào túi quần phía sau rồi cả hai rời khỏi hiện trường.
Trên đường về thành phố Cà Mau, K đem 02 chiếc nhẫn hột xoàn và 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng ra kiểm tra phát hiện là vàng giả nên vứt bỏ. K kêu L đưa đôi bông tai cho K kiểm tra biết là vàng thật nên K cất giữ trong người rồi cùng đi đến tiệm vàng Trung Kiên thuộc khóm 3, phường 7, thành phố Cà Mau bán đôi bông tai cho bà Trà Duyên được số tiền 800.000 đồng. Sau đó, cả hai quay về nhà trọ của K đang thuê ở khóm 2, phường TT, thành phố Cà Mau. Tại đây, K kiểm tra số tiền lấy trộm được là 2.200.000 đồng và số tiền bán đôi bông tai được 800.000 đồng, tổng là 3.000.000 đồng. K chia cho L 1.300.000 đồng, còn lại K hưởng 1.700.000 đồng. Lúc này, K lấy 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng còn lại ra kiểm tra phát hiện là vàng giả nên vứt vào sọt rác.
Sau khi chia tiền xong, L điều khiển xe máy chạy về nhà trọ đang thuê ở khóm 7, phường 7, thành phố Cà Mau. Khi về đến nơi, L đưa chiếc điện thoại di động hiệu Oppo vừa lấy trộm được cho Nguyễn Thuý H là người sống chung như vợ chồng với L và nói với H đây là điện thoại do người khác cầm, nay đã hết hạn chuộc lại nên đưa cho Huỳnh sử dụng. Tuy nhiên, do Huỳnh không có nhu cầu sử dụng nên cả hai đã đem đến cửa hàng điện thoại di động Cẩm Thu thuộc khóm 4, phường 7, thành phố CM bán cho bà Nguyễn Lệ T được số tiền 300.000 đồng.
Đến ngày 07/4/2023, K và L bị Công an huyện ĐD tiến hành mời làm việc. Qua làm việc, cả hai đều thừa nH hành vi phạm tội, số tiền lấy trộm, cũng như số tiền bán các tài sản lấy trộm, hiện nay K và L đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 05/KL-ĐGTS ngày 18/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đầm Dơi, kết luận: 01 bông tai vàng 18k, trọng lượng 02 phân 46 ly có giá trị 799.500 đồng; 01 két sắt Hoà Phát, kích thước 40 x 60 x 35cm có giá trị 1.200.000 đồng; 01 điện thoại Oppo A37 có giá trị 467.000 đồng; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng có giá trị 175.000 đồng; 01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng (hình mặt tròn) có giá trị 80.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản là 2.721.500 đồng. Còn lại 01 nhẫn kim loại màu vàng (hình mặt vuông) và 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng do không xác định được đặc điểm, giá trị nên không có cơ sở định giá.
Tại bản cáo trạng số: 23/CT–VKS ngày 25/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố các bị cáo Nguyễn Khánh L và Nguyễn Thanh K về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo L; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 101 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo K. Xử phạt bị cáo L từ 06 đến 09 tháng tù, xử phạt bị cáo K từ 06 đến 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét. Về vật chứng của vụ án: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exiter màu xanh biển số 69E1 -xxxxx, 01 điện thoại OPPO màu trắng gắn sim số 037271xxxxx màn hình bị bể kính vẫn còn hoạt động, 01 điện thoại hiệu VIVO màu đen gắn sim số 033555xxxxx, các vật chứng còn lại tịch thu tiêu huỷ. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
phạt.
Các bị cáo thừa nhận hành vi trộm tài sản và xin được giảm nhẹ hình Người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo K: Bị cáo có trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh khó khăn, không sống chung với gia đình, tài sản trộm cắp không lớn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo K.
Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và không yêu cầu về trách nhiệm dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đầm Dơi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Khánh L và Nguyễn Thanh K khai nhận trưa ngày 01/4/2023 các bị cáo điều khiển xe máy đi từ thành phố Cà Mau đến địa bàn huyện Đầm Dơi để tìm tài sản lấy trộm. Khi đến nhà của anh Huỳnh Văn H không có người trông coi nên cả hai đã đột nhập vào nhà lấy trộm các tài sản của anh H bán tiêu xài cá nhân.
Xét lời khai của các bị cáo là phù hợp với lời khai của bị hại tại cơ quan điều tra, phù hợp với diễn biến, quá trình thực hiện hành vi của các bị cáo.
Xét hành vi của các bị cáo thực hiện là do ý thức chủ quan, nguy hiểm cho xã hội. Bỡi lẽ, các bị cáo xem thường pháp luật, lợi dụng tài sản của bị hại không có người trông coi nên đã lén lúc chiếm đoạt, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu một cách trái pháp luật, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý lo sợ cho người dân. Do đó, có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Nguyễn Khánh L và Nguyễn Thanh K phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bản thân các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng đối với bị cáo K đã có tiền sự, bị xử phạt tiền và bị xử phạt cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản, đang bị cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu khởi tố về tội trộm cắp tài sản chưa xét xử. Từ đó cho thấy bản thân bị cáo không có sự cải thiện trong hành vi, lối sống, không sửa sai mà cố ý nhiều lần vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, bị cáo L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do đó, bị cáo L được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, bị cáo K được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự,.
Từ các nhận định nêu trên nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt tương xứng với mức độ phạm tội, hành vi và hậu quả của các bị cáo gây ra nhằm răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát huyện Đầm Dơi về mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại không yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 sợi dây chuyền kim loại có gắn hai mặt kim loại đính hột trắng, 01 cây dao bằng kim loại dài 35cm, 01 cây dao bằng kim loại dài 51cm, 01 cây búa dài 40cm, 01 cây búa thầu dài 29cm và 01 két sắt hiệu “HOÀ PHÁT” đã giao trả lại cho bị hại nên không đặt ra xem xét. Các tài sản của bị cáo L gồm 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exiter màu xanh biển số 69E1 -xxxxx, 01 điện thoại OPPO màu trắng gắn sim số 037271xxxxx màn hình bị bể kính vẫn còn hoạt động, tài sản của bị cáo K 01gồm điện thoại hiệu VIVO màu đen gắn sim số 033555xxxxx đây là những công cụ, phương tiện phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước. Các tài sản còn lại của các bị cáo không có giá trị, không sử dụng được, các bị cáo không yêu cầu nH lại nên tịch thu tiêu huỷ là phù hợp.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Đối với hành vi của các bị cáo dùng xà beng cạy phá làm hư hỏng két sắt của anh H, qua định giá tài sản là 1.200.000 đồng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đầm Dơi ra quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi này của các bị cáo.
Đối với Trà D, Thuý H, Lệ T không biết tài sản các bị cáo phạm tội mà có nên không đặt ra xem xét xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Khánh L; căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 101 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thanh K.
- Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Khánh L và Nguyễn Thanh K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Khánh L 6 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày 11/4/2023.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh K 6 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày 11/4/2023.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1Điều 47 của Bộ Luật hình sự, vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ của bị cáo Nguyễn Khánh L 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exiter màu xanh biển số 69E1 -xxxxx, 01 điện thoại OPPO màu trắng gắn sim số 037271xxxxx màn hình bị bể kính vẫn còn hoạt động; Tịch thu sung quỹ của bị cáo Nguyễn Thanh K: 01 điện thoại hiệu VIVO màu đen gắn sim số 033555xxxxx. Tịch thu tiêu huỷ của bị cáo Nguyễn Khánh L: 01 nón bảo hiểm loại nón Sơn màu trắng, đen, 01 áo khoác tay dài màu đen, logo chữ “ VOGUE”, 01 quần Jean dài màu đen, logo màu đỏ ghi chữ “EVISU”, 01 đôi dép màu đen, quai dép sọc ngang màu trắng, 01 nón kết vải màu tím có chữ adidas, 01 điện thoại hiệu Realme màu đỏ không còn hoạt động; Tịch thu tiêu hủy của bị cáo Nguyễn Thanh K: 01 quần Jean dài màu đen hiệu FORBON, 01 đôi dép màu đỏ hiệu Havaianas, 01 áo thun tay ngắn màu trắng có ghi chữ PEGASUS, 01 áo sơ mi tay dài màu đen. Tịch thu tiêu huỷ của các bị cáo Nguyễn Khánh L và Nguyễn Thanh K 01 bao màu xanh, dài 100 cm trên bao có ghi chữ “ Thuận Gành Hào”, 02 cây xà beng bằng kim loại (mỗi cây dài 66cm).
(Các vật chứng nêu trên đã qua sử dụng hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi đang quản lý).
- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Khánh L và Nguyễn Thanh K mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo, người bào chữa, người đại diện theo pháp luật của bị cáo K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nH được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2023/HS-ST
Số hiệu: | 21/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về