Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 21/2023/HS-ST NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2023 và Thông báo về việc dời thời gian xét xử vụ án hình sự số 446/TB-TA ngày 26/6/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn P, sinh ngày 26/12/2005, tại: xã Vĩnh Q, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. Nơi cư trú: ấp Vĩnh P, xã Vĩnh Q, thị xã Ngã N, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn L, sinh năm 1978 (s) và bà Huỳnh Thị T; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 27/12/2022 bị Ủy ban nhân dân Phường A, thị xã N ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/QĐ-XPVPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản” với số tiền 1.250.000 đồng; Nhân thân: Không án tích. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/3/2023 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Minh T, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo ông Hà Văn L, sinh năm 1978 là cha bị cáo (có mặt).

Địa chỉ: ấp Vĩnh P, xã Vĩnh Q, thị xã Ngã N, tỉnh Sóc Trăng

- Bị hại: Ông Võ Văn T, sinh năm 1968 (có mặt).

Địa chỉ: khóm C, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lâm Hậu A, sinh năm 1987 (có mặt) Địa chỉ: khóm A, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 20 phút, ngày 23/01/2023 bị cáo Hà Văn P điều khiển xe đạp từ nhà đi đến tiệm tạp hóa “Anh T” của ông Võ Văn T, địa chỉ: khóm C, phường A, thị xã N để mua thuốc lá điếu. Khi đến tiệm tạp hóa của ông T thì bị cáo dựng xe đạp trước cửa tiệm rồi đi vào trong. Khi đi vào tiệm thì bị cáo phát hiện có một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S21 Ultra (5G) G998B, màu bạc của ông T để trên bàn nhưng không có người trông giữ, bị cáo liền có ý định nảy sinh trộm cắp chiếc điện thoại trên nên dùng tay tháo ốp lưng điện thoại bỏ lại trên bàn, rồi lấy chiếc điện thoại cất giấu vào trong lưng quần của bị cáo. Sau đó, nhanh chóng đi trở ra ngoài và điều khiển chiếc xe đạp chạy đi. Sau khi lấy trộm chiếc điện thoại bị cáo đem đến cửa hàng điện thoại di động Công H ở khóm A, phường A, thị xã N bán cho anh Lâm Hậu A được số tiền 1.500.000 đồng. Bị cáo dùng số tiền này tiêu sài cá nhân và chơi lô tô thua hết. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày 23/01/2023 ông Võ Văn T phát hiện bị mất điện thoại di động nên đến Công an Phường 1 để trình báo sự việc. Khi tiếp nhận tin báo Công an Phường 1 tiến hành kiểm tra Camera an ninh tiệm tạm hóa “Anh T” thì phát hiện bị cáo là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp chiếc điện thoại.

Theo kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐG ngày 09/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Ngã Năm, thì chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S21 Ultra (5G) G998B, màu bạc của ông Võ Văn T giá trị còn lại là 19.241.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 23/CT-VKNN ngày 15/5/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm giữ quyền công tố Nhà nước đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, đề nghị HĐXX xem xét và áp dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra bị cáo có trình độ thấp nhận thức pháp luật còn hạn chế. Khi phạm tội bị cáo dưới 18 tuổi, bị cáo thuộc hoàn cảnh khó khăn, hộ cận nghèo đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Từ đó, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 54, Điều 90, Điều 91, Điều 98 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 03 tháng đến 05 tháng 15 ngày tù.Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường theo quy định. Về vật chứng: đây là tài sản của bị cáo và không có liên quan đến hành vi của bị cáo nên đề nghị HĐXX tuyên trả lại cho bị cáo. Đối với ông Lâm Hậu A là người mua điện thoại của bị cáo. Tuy nhiên ông Hậu Anh không biết điện thoại là do bị cáo trộm mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra không khởi tố là đúng theo quy định.

* Luật sư Phạm Minh T trình bày: Thống nhất với bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo về tội danh và khung hình phạt. Đồng thời, đề nghị HĐXX xem xét áp dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, bị cáo có trình độ học vấn thấp và hiện là người chưa thành niên dưới 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đối với trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng thống nhất đề nghị của Viện kiểm sát. Về hình phạt đề nghị HĐXX xem xét áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo thấp nhất của khung hình phạt. Đồng thời, đề nghị áp dụng thêm Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.

- Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố và xin giảm nhẹ hình phạt. Về trách nhiệm dân sự bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại cho bị hại ông Võ Văn T số tiền 19.241.000 đồng.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo ông Hà Văn L trình bày: Ông là cha ruột của bị cáo. Khi Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Ngã Năm tiến hành lấy khai bị cáo P thì có mời ông tham dự. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra bị cáo P tự khai không có ai ép buộc hay hướng dẫn bị cáo khai.

- Bị hại ông Võ Văn T trình bày: Về trách nhiệm dân sự ông yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 19.241.000 đồng. Về trách nhiệm hình sự ông yêu cầu xử lý theo quy định của pháp luật.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lâm Hậu A trình bày: Bị cáo có đến cửa hàng điện thoại của ông để bán điện thoại Samsung Galaxy S21 Ultra. Khi mua ông có hỏi điện thoại của ai, bị cáo nói là của bị cáo nên ông mới mua. Hiện điện thoại ông đã bán lại cho người khác nhưng không biết ai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng vào lúc 16 giờ 20 phút ngày 23/01/2023 tại tiệm tạp hóa “Anh T” khóm C, phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng bị cáo có hành vi trộm cắp một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S21 Ultra (5G) G998B, màu bạc của bị hại. Theo kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐG ngày 09/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Ngã Năm, thì chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S21 Ultra (5G) G998B, màu bạc giá trị còn lại là 19.241.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 23/CT- VKSNN, ngày 15/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo về hành vi và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan cho bị cáo nên HĐXX chấp nhận.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật; Bản thân bị cáo cũng hiểu rõ người nào cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị pháp luật trừng trị. Đồng thời, bị cáo từng có 01 tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Nhưng bị cáo vẫn không biết lỗi mà cố tình lén lúc lấy trộm tài sản của bị hại. Do đó, đối với hành vi của bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và cũng là phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội, nhất là trong thời điểm hiện nay loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng Điều 65 cho bị cáo hưởng án treo. Xét thấy, bị cáo có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản tính đến thời điểm phạm tội bị cáo vẫn chưa thực hiện đóng phạt nên được xem là chưa được xóa tiền sự. Căn cứ theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ Luật hình sự về án treo và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi bổ sung Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP thì bị cáo không đủ điều kiện được hưởng án treo. Do đó, đối với lời đề nghị của người bào chữa không được HĐXX chấp nhận.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo như: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có; Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Ngoài ra, bị cáo có trình độ học vấn thấp, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội và xét xử bị cáo là người chưa thành niên nên khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới khung hình. Kiểm sát viên và ngươi bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử bị cáo dưới khung hình phạt là có cơ sở và phù hợp theo quy định pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 19.241.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường nên HĐXX ghi nhận. Buộc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 19.241.000 đồng.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu vàng gold, số máy MKQC2LL/A, số sê ri C7JRMFJ5GRXY, có gắn ốp nhựa và 01 chiếc xe đạp màu đen, không có tay thắng, không có dè, yên ngồi màu xám có in chữ AMASA. Xét thấy, đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo và không có liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[7] Đối với ông Lâm Hậu A là người mua điện thoại của bị cáo. Tuy nhiên ông Hậu Anh không biết điện thoại là do bị cáo trộm. Đồng thời, giữa bị cáo với ông Hậu Anh không có quen biết hay thỏa thuận gì trước. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra không xem xét hành vi của ông Lâm Hậu A là đúng theo quy định.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, do bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên HĐXX xem xét miễn án phí cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 điểm a khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 54, Điều 91, khoản 4 Điều 98 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Hà Văn P 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2/ Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 589 của Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Hà Văn P bồi thường cho bị hại ông Võ Văn T số tiền 19.241.000 đồng (mười chín triệu hai trăm bốn mươi mốt ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo qui định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/5/2023) Trả lại cho bị cáo Hà Văn P + Một (01) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu vàng gold, số máy MKQC2LL/A, số sê ri C7JRMFJ5GRXY, có gắn ốp nhựa (đã qua sử dụng) + Một (01) chiếc xe đạp màu đen, không có tay thắng, không có dè, yên ngồi màu xám có in chữ AMASA.

4/ Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Hà Văn P được miễn, không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm.

5/ Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2023/HS-ST

Số hiệu:21/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về