Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 06/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 18/2023/QĐXXST- HS ngày 24/3/2023 đối với bị cáo:

Lê Thế T, sinh ngày 26/12/1991 tại tỉnh Quảng Bình; Hộ khẩu thường trú: chòm 2, thôn A, xã Q, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình; Chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Họ và tên cha: Lê Minh T1, sinh năm: 1952; Họ và tên mẹ: Lê Thị G, sinh năm 1958.

Tiền án; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 27/10/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 02 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 220/2005/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/02/2017.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/10/2022 đến ngày 07/11/2022, tạm giam từ ngày 07/11/2022 đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

1. Anh Phan Nhất D, sinh năm 1992 Địa chỉ: thôn P, xã M, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

2. Chị Nguyễn Thị Thu T2, sinh năm 1992 Địa chỉ: thôn I, xã K, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 30/10/2022, Lê Thế T mua vé giường 24, khoang 6, toa 6, tàu SE5 từ Bình Thuận vào Thành phố Hồ Chí Minh nhằm mục đích tìm người có tài sản sơ hở để trộm cắp. Đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, T đi bộ qua khoang số 7, toa số 8 thì thấy cửa khoang hé mở nên đi vào trong, phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro của anh Phan Nhất D đang sạc pin để ở trên hộc cất hành lý giường nằm tầng hai bên trái và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax của chị Nguyễn Thị Thu T2 để trên giường nằm tầng một bên phải. T lấy trộm 02 chiếc điện thoại trên thì bị chị T2 phát hiện, tri hô. Lúc này, T trả lại 02 điện thoại mới lấy được rồi đi về giường của mình thì bị anh D cùng với nhân viên trên tàu đuổi theo bắt giữ, giao Công an Phường O, Quận 3 xử lý ngay khi tàu về đến ga Sài Gòn tại số 01 NT, Phường O, Quận 3. Công an Phường O lập hồ sơ chuyển T cùng tang vật đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Thế T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Theo bản Kết luận định giá tài sản số 111 ngày 04/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro trị giá 12.799.000 đồng, điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax trị giá 18.581.000 đồng (Bút lục 38, 39).

Vật chứng của vụ án:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax, dung lượng 128GB, màu xanh dương, Cơ quan điều tra đã trả lại chị Nguyễn Thị Thu T2.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro, dung lượng 128GB màu xanh dương, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Phan Nhất D.

Về dân sự: Anh Phan Nhất D và chị Nguyễn Thị Thu T2 đã nhận lại được tài sản nên không yêu cầu gì thêm.

Tại Cáo trạng số 20/CT-VKS-Q3 ngày 21 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Lê Thế T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Thế T có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Lời nói sau cùng: Bị cáo xin được khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Lê Thế T: Từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Về vật chứng và các biện pháp tư pháp: Đề nghị xử lý theo đúng quy định pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận.

- Ý kiến của bị hại : Bị hại vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử: Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình; qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản thực nghiệm điều tra, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Thế T đã có hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở của bị hại để chiếm đoạt tài sản, bị cáo T đã lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax của chị Nguyễn Thị Thu T2 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro của anh Phan Nhất D tại khoang số 7, toa số 8 chuyến tàu SE5 từ Bình Thuận vào Thành phố Hồ Chí Minh; tổng trị giá tài sản bị thiệt hại là 31.380.000 đồng.

Bị cáo T có năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên có lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội, nên cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự. Bị cáo T có nhân thân xấu.

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi của bị cáo Lê Thế T là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo (nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải thể hiện qua quá trình nhân thân của bị cáo) do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Phan Nhất D và chị Nguyễn Thị Thu T2 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm (Bút lục 57, 63).

Về xử lý vật chứng của vụ án:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax, dung lượng 128GB, màu xanh dương, Cơ quan điều tra đã trả lại chị Nguyễn Thị Thu T2 (bút lục số 63) + 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro, dung lượng 128GB màu xanh dương, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Phan Nhất D (bút lục số 57)

- Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thế T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Lê Thế T 02 (hai) năm tù giam.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 30/10/2022.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo Lê Thế T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thị hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Căn cứ các Điều 331, Điều 333, Điều 336 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST

Số hiệu:20/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về