TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 20/2022/HSST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 642/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: NTT. Tên gọi khác : Không, Giới tính : Nam - Sinh ngày 26/5/1987.
- Nơi cư trú và chỗ ở: Tổ 1, phường ĐQ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không.
- Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Không - Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không
- Con ông: Nông Trường X; Con bà: Vũ Thị H.
- Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2 - Vợ, con: Chưa có.
- Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Tại bản án số 205/HSST/2008 ngày 27/10/2008 của Tòa án nhân thành phố Thái Nguyên xử phạt 26 tháng 9 ngày tù cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Nộp án phí ngày 02/01/2009.
+ Tại Bản án số 210/HSST/2011 ngày 22/6/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với 26 tháng 9 ngày tù của Bản án số 205 ngày 27/10/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên buộc Thái phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 44 tháng 9 ngày tù. Ra trại ngày 05/4/2014. Nộp án phí ngày 10/10/2011.
+ Ngày 08/12/2021, NTT bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/11/2021 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt tại phiên tòa);
Người bị hại:
1. Nguyễn Thị Hồng Đ, sinh năm 1993 Địa chỉ: Tổ 12, phường ĐQ, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Có đơn vắng mặt tại phiên tòa)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà TTL, sinh năm 1973 Địa chỉ: Tổ 3, phường Q, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Có đơn vắng mặt tại phiên tòa)
2. Bà Vũ Thị H, sinh năm 1956 và ông Nông Trường X, sinh năm 1950. (Là bố mẹ ruột của bị cáo T) Đều trú quán: Tổ 1, phường ĐQ, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt tại phiên tòa);
NHẬN THẤY
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 11/01/2021, NTT đi bộ từ Ủy ban nhân dân phường TĐ, thành phố Thái Nguyên ra khu vực đường tròn ĐQ, thành phố Thái Nguyên với mục đích xem ai có sơ hở tài sản thì trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khi đi qua nhà chị Nguyễn Thị Hồng Đ (Sinh năm 1993, trú tại: Số nhà 63, tổ 12, phường ĐQ, thành phố Thái Nguyên), Thái quan sát thấy phía trước cửa nhà chị Đ có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AIR BLADE, BKS 20H1- 067.48, chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa điện. Quan sát thấy không có người trông coi, T liền đi đến vị trí để chiếc xe bật mở khóa điện, khởi động và điều khiển xe đi ăn đêm sau đó rủ một số người bạn đến hát Karaoke ở quán L thuộc tổ 3, phường ĐQ, thành phố Thái Nguyên. Đến khoảng 24 giờ cùng ngày do không có tiền thanh toán trả tiền hát nên Thái đã viết giấy để lại chiếc xe mô tô cho chị L và hẹn đến trưa ngày 12/01/2021 sẽ đến thanh toán tiền hát và lấy lại xe. Sau đó T đã bỏ trốn khỏi địa phương đến ngày 02/11/2021 thì Thái bị bắt theo quyết định truy nã.
Quá trình điều tra ngày 13/01/2021 chị TTL (Sinh năm 1979, trú tại: Tổ 3, phường Q, thành phố Thái Nguyên) là chủ quán hát Karaoke L đã tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AIR BLADE, BKS 20H1 – 067.48 kèm theo 01 giấy biên nhận để lại xe do NTT viết cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên.
Tại bản Kết luận định giá số 21/HĐĐGTS ngày 24/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thành phố Thái Nguyên, xác định: Giá trị của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AIR BLADE, BKS 20H1 – 067.48 đã qua sử dụng của chị Đ là 12.000.000 đồng (BL 18).
Tại Cơ quan điều tra, NTT đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị can phù hợp với đơn trình báo, lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.
Vật chứng của vụ án: - 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE, màu vàng đen, BKS 20H1 – 067.48; số khung Y387973, số máy F27E – 1245629. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe cho chị Nguyễn Thị Hồng Đ là chủ sở hữu quản lý sử dụng.
Phần dân sự: Chị Đ đã nhận lại xe và không yêu cầu Thái phải bồi thường gì.
- Quá trình điều tra gia đình Thái đã trả số tiền 6.800.000 đồng cho chị L.
Chị L đã nhận số tiền và không yêu cầu gì thêm.
Bản cáo trạng số 09/CT-VKSNDTPTN ngày 27/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố NTT về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, trong phần luận tội đối với bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo NTT phạm tội Trộm cắp tài sản. Đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Đề xuất xử phạt NTT từ 18 đến 24 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Phần dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, người liên quan đã nhận lại số tiền và đều không yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Bị cáo, bị hại, người liên quan được quyền kháng cáo bản án.
Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan, đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. Người liên quan không có ý kiến tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm đoàn tụ cùng gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1] .Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, người bị hại, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] .Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Đơn trình báo, Kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, người liên quan...và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 11/01/2021, tại tổ 12, phường ĐQ, thành phố Thái Nguyên, NTT đã trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE, màu vàng đen, BKS: 20H1 – 067.48 của chị Nguyễn Thị Hồng Đ có trị giá 12.000.000 đồng. Hiện chiếc xe đã được thu hồi trả lại cho chị Đ là chủ sở hữu quản lý sử dụng, chị Đ đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì về phần Dân sự.
[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của công dân, bị cáo Thái đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản là chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE, màu vàng đen, BKS: 20H1 – 067.48 có trị giá 12.000.000 đồng của người khác được pháp luật bảo vệ mà cụ thể là của chị Nguyễn Thị Hồng Đ, nên hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật
Nội dung điều 173 quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác tri gia tư 2.000.000 đông đến dưới 50.000.000 đông hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.
[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi của bị cáo xâm phạm trực tiếp đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần có mức án nghiêm minh, tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra để có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo là người có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xét xử bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật; Quá trình điều tra bị cáo bỏ trốn và đã bị bắt theo quyết định truy nã; Ngày 08/12/2021 NTT bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản” trong một vụ án khác; Bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để trở thành công dân có ích cho xã hội lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đo bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Từ những nội dung nêu trên Hội đồng xét xử thấy: Cần phải xử phạt bị cáo mức án từ 21 đến 24 tháng tù để đảm bảo việc răn đe và phòng ngừa chung và cũng phù hợp với mức đề nghị hình phạt đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay, tương xứng với nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
[6] Vật chứng của vụ án: - 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE, màu vàng đen, BKS 20H1 – 067.48; số khung Y387973, số máy F27E – 1245629. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe cho chị Nguyễn Thị Hồng Đ là chủ sở hữu quản lý sử dụng.
[7] Phần dân sự: - Chị Đ đã nhận lại xe và không yêu cầu Thái phải bồi thường gì.
- Quá trình điều tra bố bị cáo Thái là ông Nông Trường X đã trả số tiền 6.800.000 đồng cho chị TTL. Chị L đã nhận số tiền và không yêu cầu bồi thường gì.
[8] Về hình phạt bổ sung và án phí:
- Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính lẽ ra Hội đồng xét xử phạt bổ sung bị cáo. Tuy nhiên tại quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai không có tài sản riêng và không nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo;
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo, người bị hại, người liên quan được quyền kháng cáo bản án.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
1. Bị cáo NTT phạm tội “Trộm cắp tài sản” Căn cứ khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
2. Xử phạt: NTT 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
3. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Đ đã nhận lại tài sản, người liên quan không có yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo NTT phải nộp 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HSST
Số hiệu: | 20/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về