Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAN LỘC – TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08/5/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2020/TLST-HS ngày 11/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HS ngày 24/4/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn A; Sinh ngày: 15/5/2003 (Đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 07 tháng 29 ngày); Nơi sinh và nơi cư trú: Thôn T, xã Q, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn K và bà Nguyễn Thị K1; Vợ con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: 01 (Ngày 07/8/2019, bị công an huyện Can Lộc xử phạt hành chính 1.000.000 đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác” theo quyết định xử phạt hành chính số 13/QĐ-XPVPHC ngày 07/8/2019; Đã thi hành vào ngày 13/8/2019); Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” kể từ ngày 21/01/2020 đến nay. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị N; Trợ giúp viên pháp lý công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh; Số 103A đường p, phường T, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh); Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Nguyễn Thị K1 (Mẹ đẻ); Sinh năm 1962; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt

- Bị hại: Chị Thân Thị V; Sinh năm: 1987; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trú tại: Thôn Y, xã Q, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Bà Nguyễn Thị K1; Sinh năm 1962; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trú tại:

Thôn T, xã Q, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 04/01/2020, Nguyễn Văn A đi bộ từ nhà mình đến nhà chị Thân Thị V để trộm cắp tài sản. Đến nơi thấy cửa sổ phía sau nhà chị Vmở nên A trèo qua cửa sổ vào nhà. Tại phòng bếp, A thấy có 01 chiếc tủ nhựa đựng quần áo nên lục lọi và lấy trộm được 2.800.000 đồng. Sau đó, An theo lối cũ trèo ra, đến quán game ở xã Sơn Lộc, dùng số tiền trộm được để chơi điện tử và tiêu xài cá nhân hết.

Đến khoảng 21 giờ ngày 18/01/2020, A tiếp tục đến nhà chị V để trộm cắp tài sản. Đến nơi thấy mọi người trong nhà đang xem tivi ở phòng khách nên An trèo qua cửa sổ phía sau để vào nhà. Khi vào đến phòng ngủ, An mở túi xách treo ở móc treo quần áo gần cửa ra vào lấy được 1.600.000 đồng và bỏ tiền vào túi quần rồi bỏ chạy.

Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc đã thu giữ từ Nguyễn Văn A 1.120.000 đồng. Số tiền này đã được trả lại cho bị hại.

Ngày 04/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc ban hành bản Kết luận điều tra số 19 đề nghị truy tố Nguyễn Văn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Ngày 09/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Can Lộc truy tố Nguyễn Văn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự tại Cáo trạng số 20/CT-VKSCL-HS Ngày 11/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Can Lộc chuyển toàn bộ hồ sơ sang Tòa án nhân dân huyện Can Lộc. Tòa án nhân dân huyện Can Lộc đã thụ lý vụ án và mở phiên tòa đúng quy định.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo trình bày mục đích trộm cắp tài sản là để lấy tiền chơi game và ăn uống, hành vi phạm tội chỉ có bị cáo tự thực hiện, không có ai tham gia, hỗ trợ.

Chị V trình bày đã nhận đủ tiền bồi thường thiệt hại, không yêu cầu gì thêm về dân sự, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đồng thời chị V cũng khuyên bị cáo nên xin đi học trở lại.

Bà Nguyễn Thị K1 trình bày An đã bỏ học, chủ yếu ở nhà ăn chơi chứ không làm gì, gia đình biết việc An nghiện game và cũng đã nhắc nhở nhiều nhưng An không thay đổi. Sau khi việc trộm cắp bị phát hiện thì bà đã bồi thường cho chị Vđầy đủ.

Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, Điều 36, tiết thứ hai điểm b, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90, 91, 98, 100 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 08 đến 10 tháng cải tạo không giam giữ, không khấu trừ thu nhập của bị cáo. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày chính quyền địa phương xã Q nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương xã Q giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ ở mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Người bào chữa.

[2] Xét hành vi của bị cáo:

Tại phiên toà hôm nay bị cáo giữ nguyên các lời khai như đã trình bày trong giai đoạn điều tra, truy tố. Bị cáo thừa nhận đã hai lần đột nhập vào nhà chị Vđể trộm cắp tài sản và chiếm đoạt tổng cộng 3.300.000 đồng. Lời nhận tội của bị cáo là khách quan, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân, vào khoảng 21 giờ ngày 04/01/2020, Nguyễn Văn A đã đột nhập vào nhà chị Thân Thị V lấy trộm được 2.800.000 đồng. Sau đó, vào ngày 18/01/2020, bị cáo tiếp tục lấy trộm của chị V1.600.000 đồng.

Việc bị cáo lợi dụng sơ hở của chị Vđể chiếm đoạt 2.800.000 đồng đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đối với hành vi trộm cắp vào ngày 18/4/2020 trị giá dưới 2.000.000 đồng nên bị cáo không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này là phù hợp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của chị Vân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội trên địa bàn.

Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; mẹ đẻ đã khắc phục hậu quả cho bị hại, được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại tiết thứ hai điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về hướng xử lý đối với bị cáo: Bị cáo chỉ bị truy tố một hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, việc bị cáo hai lần đột nhập vào nhà của bị hại để tìm tài sản chiếm đoạt cho thấy bị cáo đã có sự chủ động tìm tài sản để trộm cắp chứ không phải là hành động bột phát, nhất thời. Do đó, xử phạt bị cáo mức án như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp. Bị cáo dưới 18 tuổi nên không bị khấu trừ thu nhập.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc trả lại cho chị Vsố tiền 1.120.000 đồng thu được từ bị cáo là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; tiết thứ hai điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 36, Điều 90, Điều 91, Điều 98, Điều 100 Bộ luật Hình sự; Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 6;

khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án.

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A: 08 (Tám) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Nguyễn Văn A cho Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh trong việc giám sát, giáo dục Nguyễn Văn A.

Không khấu trừ thu nhập của bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, người đại diện của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2020/HS-ST

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Can Lộc - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về