Bản án về tội trộm cắp tài sản số 194/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B

BẢN ÁN 194/2022/HS-ST NGÀY 21/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 11 năm 2022, tại điểm cầu Toà án nhân dân tỉnh B và điểm cầu Trại tạm giam Công an tỉnh B, Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 190/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 198/2022/ QĐXXST- HS ngày 07 tháng 11 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh H, sinh năm 1991 Nơi cư trú: Số nhà 11B, ngõ 117, đường H, phường H, thành phố B, tỉnh B.

Nghề nghiệp:Không; trình độ văn hóa: 8/10; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1960 (đã chết) và bà Đỗ Thị Ph, sinh năm 1960 Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 49 ngày 22/4/2022 của TAND thành phố B xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/7/2022.

Tiền sự: Quyết định số 26/QĐ-XPHC ngày 02/12/2021 của Công an phường Xương Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, phạt tiền 1.500.000 đồng, chưa chấp hành nộp tiền phạt.

Nhân thân: Ngày 29/6/2010,Chủ tịch UBND thành phố B quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 12 tháng.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt).

* Bị hại:

Ông Hoàng Hữu Tr, sinh năm 1967 (vắng mặt) Địa chỉ: Xóm B, xã T, huyện V, tỉnh B

* Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1985 (có mặt)

2. Bà Đỗ Thị Ph, sinh năm 1960 (có mặt) Cùng địa chỉ: Số nhà 11B, ngõ 117, đường H, phường H, thành phố B, tỉnh B.

* Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1971(vắng mặt) Địa chỉ: Số 05, ngõ 39, đường L, phường H, thành phố B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh H đã bị Công an phường Xương Giang, thành phố B xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản và Tòa án nhân dân thành phố B kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Khoảng 01 giờ ngày 18/9/2022, Nguyễn Minh H điều khiển xe đạp điện đem theo 01 bao tải dứa, 01 chiếc kìm và 01 chiếc đèn pin mini đi từ nhà đến các tuyến phố trên địa bàn thành phố B mục đích để trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu vực ngõ 39, đường L, tổ V, phường H thì phát hiện có công trình xây dựng nhà ở của ông Hoàng Hữu Tr đang xây dựng nên nảy sinh ý định trộm cắp vật liệu xây dựng.Quan sát xung quanh không có ai, H dựng xe đạp điện ở trước cửa rồi đi vào tầng 1 nhưng không phát hiện đồ vật, tài sản gì. H tiếp tục lên tầng 2, tầng 3 của công trình. Khi đi đến tầng 3, phát hiện thấy 01 cuộn dây điện, nhãn hiệu “Trần Phú”, màu vàng, dài 37 mét, loại dây (2x2,5)mm, một đầu là phích cắm điện, một đầu là ổ cắm điện có khối lượng 4kg trên nền nhà, Hdùng hai tay bê và vứt xuống vỉa hè trước cửa công trình. Sau đó, Htiếp tục tìm kiếm thì phát hiện 04 thanh kim loại hình trụ dài 03 mét, đường kính tiết diện thân 5cm, có tổng khối lượng là 35,6 kg. H lần lượt dùng tay bê 04 thanh kim loại xuống để dựa vào cầu thang tầng 1. Khi Hđang bê thanh kim loại đi xuống cầu thang tầng 1 thì bị ông Nguyễn Văn K là người trông coi công trình cho ông Tr phát hiện. Ông K hỏi tên, tuổi, địa chỉ và yêu cầu H tháo khẩu trang để kiểm tra đồng thời rút chìa khóa xe đạp điện của H rồi gọi điện báo công an. Lợi dụng sơ hở, H dắt xe bỏ chạy thì bị ông K đuổi theo. H bỏ xe lại và chạy về nhà.

Ông Tr sau khi biết sự việc đã làm đơn trình báo Công an phường Hoàng Văn Thụ. Công an phường đã tiến hành lập biên bản sự việc và tạm giữ 01 chiếc xe đạp điện màu trắng, có dán mác NiJia, số khung 4083166, số máy NJ48V140829783, trên xe buộc 01 bao tải dứa màu xanh là tài sản mà H bỏ lại sau khi bị truy đuổi. Hồi 10 giờ ngày 18/9/2022, Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B triệu tập thì Nguyễn Minh H đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản.

Kết luận định giá tài sản số 158 ngày 21/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận:

- 01 đoạn dây điện nhãn hiệu “Trần Phú” có chiều dài 37m, có vỏ nhựa màu vàng, loại dây (2x2,5)mm, một đầu là phích cắm điện, một đầu là ổ cắm điện có khối lượng 04kg, đã qua sử dụng, có trị giá tại thời điểm ngày 18/9/2022 là 20.000 đồng/1kg x 4kg = 80.000 đồng.

- 04 thanh kim loại hình trụ dài 03m, đường kính tiết diện thân 05cm, tổng khối lượng là 35,6kg, cũ đã qua sử dụng, có trị giá tại thời điểm ngày 18/9/2022 là 7.000 đồng/1kg x 35,6kg = 249.200 đồng.

Cơ quan điều tra đã cho bị cáo Htự xác định hiện trường và thực nghiệm điều tra. Kết quả, Hxác định đúng hiện trường, xác định đúng tài sản trộm cắp và thực hiện hành vi trộm cắp như đã khai.

Cơ quan điều tra cho ông Nguyễn Văn K nhận dạng H qua ảnh. Kết quả, ông K nhận ra được H là người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại công trình xây dựng nhà ở của ông Hoàng Hữu Tr vào ngày 18/9/2022.

Về xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Hoàng Hữu Tr 01 đoạn dây điện nhãn hiệu “Trần Phú” và 04 thanh kim loại hình trụ dài 03m đã thu giữ; trả cho anh Nguyễn Ngọc L 01 xe đạp điện, 01 bao dứa màu xanh đã qua sử dụng. Ông Tr, anh L không yêu cầu bồi thường.

Đối với 01 chiếc kìm và 01 chiếc đèn pin mini bị cáo khai đã bị rơi trong quá trình bỏ chạy. Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát nhưng không phát hiện và không thu giữ được.

Tại Bản Cáo trạng số 188/CT-VKS ngày 27 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a,b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận ngày 18/9/2022 bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản tại công trình xây dựng nhà ở của ông Hoàng Hữu Tr như bản Cáo trạng đã nêu và như bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra. Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng, không oan, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Ngọc L, bà Đỗ Thị Ph thống nhất trình bày: Chiếc xe đạp điện màu trắng, có dán mác NiJia, 01 bao tải dứa màu xanh là của anh L cho bị cáo mượn nhưng không biết bị cáo sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Anh L đã nhận lại xe, không yêu cầu gì.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người tham gia tố tụng được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án vẫn giữ nguyên quyết định như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a,b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H từ 07 đến 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 18/9/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về án phí: Bị cáo án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Bị hại, người làm chứng vắng mặt nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của những người này. Căn cứ vào Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Căn cứ lời khai bị cáo, bị hại, Kết luận định giá tài sản số 158/KL-HĐĐG ngày 21/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/9/2022, bị cáo Nguyễn Minh H có hành vi trộm cắp 01 đoạn dây điện nhãn hiệu “Trần Phú” có chiều dài 37m, loại dây (2x2,5)mm và 04 thanh kim loại hình trụ dài 03m, đường kính tiết diện thân 05cm, tổng khối lượng là 35,6kg tại công trình xây dựng nhà ở của ông Hoàng Hữu Tr ở ngõ 39, đường L, tổ V, phường H, thành phố B. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 329.000 đồng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi được quy định tại Bộ luật Hình sự. Hành vi lợi dung sơ hở của chủ sở hữu tài sản để chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của ông Tr. Bị cáo có 01 tiền sự và 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích,thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với lỗi cố ý, đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a,b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, Điều luật trên là có căn cứ.

[4] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý bất an cho người dân. Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, thể hiện sự coi thường pháp luật. Do vậy, cần pHxử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không pHchịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội; sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự Hội đồng xét xử áp dụng để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[7] Xét thấy,bị cáo đã bị xét xử, bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không cải sửa nay lại phạm tội do cố ý. Do vậy, để răn đe, giáo dục bị cáo, phòng ngừa tội phạm cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp. Bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường nên không xem xét, giải quyết.

[9] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ:

[9.1] Đối với 01 đoạn dây điện nhãn hiệu “Trần Phú” có chiều dài 37m, có vỏ nhựa màu vàng, loại dây (2x2,5)mm, một đầu là phích cắm điện, một đầu là ổ cắm điện có khối lượng 04kg, đã qua sử dụng; 04 thanh kim loại hình trụ dài 03m, đường kính tiết diện thân 05cm, tổng khối lượng là 35,6kg, cũ đã qua sử dụng,bị cáo chiếm đoạt của ông Hoàng Hữu Tr. Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản trên cho ông Tr là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9.2] Đối với 01 chiếc xe đạp điện màu trắng, có dán mác NiJia, số khung 4083166, số máy NJ48V140829783, 01 bao tải dứa màu xanh là tài sản thuộc sở hữu của anh Nguyễn Ngọc L cho bị cáo mượn nhưng không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh L là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9.3] Đối với 01 chiếc kìm và 01 chiếc đèn pin mini bị cáo mang theo khi đi trộm cắp tài sản, Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát nhưng không phát hiện và không thu giữ được nên không có cơ sở xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[12] Hội đồng xét xử tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 329 của BLTTHS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a,b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 292; Điều 293; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh H 08 (tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 18/9/2022.

2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 194/2022/HS-ST

Số hiệu:194/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về