Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 13/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 380/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo:

Triệu Quốc H (Thiên), sinh năm 1998; nơi thường trú: Ấp N, xã TQ, huyện MX, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Quốc T và bà Thạch Thị H; có vợ tên Triệu Thị Y, sinh năm: 2000 và 01 người con sinh năm 2015; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 31/10/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 02 năm 6 tháng về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 22/2018/HSST; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/6/2022, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Phạm Văn H2, sinh năm 1995; nơi đăng ký thường trú: Thôn XC, xã LL, huyện KM, tỉnh Hải Dương; tạm trú: Y, khu phố M, phường AP, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Phan Văn Th, sinh năm 1962; nơi thường trú: Thôn XC, xã LL, huyện KM, tỉnh Hải Dương; tạm trú: Y, khu phố M, phường AP, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1972; nơi thường trú: Thôn XC, xã LL, huyện KM, tỉnh Hải Dương; tạm trú: Y, khu phố M, phường AP, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Ông Trần Xuân H3, sinh năm 1972; nơi thường trú: Z, khu phố M, phường AP, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Tổ K, khu phố BP, phường BC, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Phạm Văn D, sinh năm 1991. Vắng mặt;

- Ông Lê Hữu T3, sinh năm 1974. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 19/6/2022, Triệu Quốc H đi bộ đến dãy trọ địa chỉ số Y, khu phố M, phường AP, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để tìm người quen. Tại đây, H thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu đen xám biển số 61Z2-X của Phạm Văn H2 đang để ở trước phòng trọ số 01 không có người trông coi. H tiếp cận và nhìn thấy 01 chùm chìa khóa xe mô tô được để ở trong giỏ của 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng Cup màu xanh gần đó, H lấy chìa khóa xe nêu trên mở ổ khóa xe biển số 61Z2-X thì mở được, H dẫn xe nêu trên ra phía ngoài đường đề máy điều khiển chạy thoát. Lúc này, bà Nguyễn Thị T2 là mẹ của H2 phát hiện nên chạy vào nói cho H2 biết. Huy điều khiển xe mô tô đi tìm đến đoạn đường ĐT743 trước ngân hàng ACB tại khu phố 2, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì thấy H đang dừng xe mô tô biển số 61Z2-X trên đường và mở yên xe để kiểm tra xăng nên đã truy hô cùng người dân giữ H cùng tang vật báo Công an phường An Phú đến làm việc, sau đó chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An thụ lý. Tang vật thu giữ gồm 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu đen xám số máy: 0550081, số khung: Y031917 biển số 61Z2-X; 01 (một) USB màu trắng 4GB bên trong có chứa dữ liệu video hành vi trộm cắp tài sản.

Kết luận định giá tài sản và biên bản định giá tài sản ngày 28/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu đen xám số máy: 0550081, số khung: Y031917 biển số 61Z2-X có trị giá 6.000.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 08/CT-VKS-TA ngày 22/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Triệu Quốc H về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt Triệu Quốc H mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Bị cáo Triệu Quốc H thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như Cáo trạng đã nêu. Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi và hậu quả: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thống nhất thừa nhận vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 19/6/2022 đã lén lút chiếm đoạt một chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave, màu đen xám số máy: 0550081, số khung: Y031917 biển số 61Z2-X của Phạm Văn H2 có giá 6.000.000 đồng tại địa chỉ số 07C8, khu phố 3, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương sau đó bị phát hiện bắt giữ.

[3] Về lỗi của bị cáo: Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo nhận thức được việc làm đó là vi phạm pháp luật, thấy trước hậu quả đồng thời mong muốn chiếm đoạt được tài sản của bị hại để bán lấy tiền tiêu xài, do đó lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Từ những nhận xét nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo chiếm đoạt tài sản có giá trị 6.000.000 đồng nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không gây oan sai cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi đó là vi phạm pháp luật, đã bị Tòa án xét xử và kết án về tội trộm cắp tài sản; bị cáo biết nếu bị phát hiện sẽ bị xử lý nhưng vì tham lam, tư lợi nên đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần có mức hình phạt tương xứng để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt nêu trên là có căn cứ và phù hợp pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Tài sản bị cáo chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave, màu đen xám số máy: 0550081, số khung: Y031917 biển số 61Z2-X. Quá trình điều tra, xác minh được biết xe trên do ông Trần Xuân H3 đứng tên trên giấy đăng ký xe. Vợ chồng ông Phạm Văn Th và bà Nguyễn Thị T2 (là cha, mẹ của Phạm Văn H2) có nhờ ông H3 đứng tên đăng ký xe do không có hộ khẩu tại Bình Dương. Sau đó, ông Th và bà T2 cho chiếc xe trên cho con là Phạm Văn H2 quản lý, sử dụng làm phương tiện đi lại, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Thuận An đã trả lại xe cho Phạm Văn H2 là đúng quy định. Ông H2 không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên không xem xét.

Đối với 01 USB màu trắng 4GB bên trong có chứa dữ liệu video hành vi trộm cắp tài sản đã được trích xuất là chứng cứ nên lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Triệu Quốc H phạm tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Triệu Quốc H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/6/2022.

2. Về án phí: Bị cáo Triệu Quốc H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2023/HS-ST

Số hiệu:19/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về