Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Đỗ Duy P (tên gọi khác: Út T), sinh ngày 21/4/1991, tại tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: Ấp A, xã Đ, huyện M, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Đỗ Văn H, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1963; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Có 01 tiền án về “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích”, theo bản án hình sự sơ thẩm số 05/2018/HSST ngày 23/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre; Tiền sự: Có 03 tiền sự theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 34 ngày 23/12/2020, số 03 ngày 12/02/2021 của Công an xã Đa Phước Hội và Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 59 ngày 25/3/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đa Phước Hội; Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Phạm Thị T1, sinh năm 1964; Nơi cư trú: ấp H, xã Đ, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 12/12/2021 Đỗ Duy P đi bộ trên đường lộ đan tổ nhân dân tự quản số 13 ấp Hội An, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, khi đi ngang nhà bà Phạm Thị T1, sinh năm 1964, ở ấp H, xã Đ thì nhìn thấy có 02 chiếc xe mô tô đang dựng ở lối đi vào nhà, trên xe có gắn sẳn chìa khóa nên nảy sinh ý định lấy trộm đem bán lấy tiền tiêu xài. P quan sát thấy không có người liền đi vào dẫn chiếc xe hiệu Wave S biển số 71H7-3474 của bà T1 ra đường đan rồi khởi động máy điều khiển xe đi về hướng huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Khi đến ngã ba Nhà Nguyện thuộc xã Hòa Lộc, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre, P tháo biển số để vào cốp xe rồi tiếp tục điều khiển xe định đi về hướng thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre để tìm nơi tiêu thụ. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, bà T1 phát hiện xe bị mất nên trình báo Công an. Do đó, khi P điều khiển xe đến khu vực ngã ba Mũi Tàu thuộc xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre thì bị Công an xã Tân Thành Bình, phát hiện mời làm việc, P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giao nộp xe mô tô biển số 71H7-3474.

Vật chứng thu giữ gồm: Xe mô tô biển số 71H7-3474 nhãn hiệu Honda, số loại Wave S110, màu sơn đen-xám, bánh căm, thắng đùm, số máy 3E0668235, số khung 69Y119872, đã qua sử dụng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 10/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Mỏ Cày Nam kết luận: Xe mô tô biển số 71H7-3474 nhãn hiệu Honda, số loại Wave S110, màu sơn đen-xám, bánh căm, thắng đùm, số máy 3E0668235, số khung 69Y119872, đã qua sử dụng trị giá 5.500.000 (năm triệu năm trăm nghìn) đồng.

Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKSMCN ngày 27 tháng 4 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre truy tố bị cáo Đỗ Duy P về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo Đỗ Duy P đồng ý với nội dung Cáo trạng và thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.

Bị hại Phạm Thị T1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng có ý kiến trong giai đoạn điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt là bị hại đã nhận lại xe mô tô biển số 71H7- 3474 và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm; Về phần hình phạt cho bị cáo, bị hại yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre phát biểu quan điểm về vụ án, cho rằng việc truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên bảo lưu toàn bộ nội dung bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Đỗ Duy P phạm “Tội trộm cắp tài sản”, đề nghị xử phạt bị cao Đỗ Duy P từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung do bị cáo không có thu nhập ổn định. Về trách nhiệm dân sự đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận bị hại bà Phạm Thị T1 đã nhận lại xe mô tô biển số 71H7-3474 và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỏ Cày Nam đã trả lại cho bị hại bà Phạm Thị T1 một xe môtô hai bánh biển số 71H7-3474.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỏ Cày Nam, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo Đỗ Duy P bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre truy tố, Hội đồng xét xử nhận định: Bị cáo Đỗ Duy P là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức rõ việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, nhằm mục đích bán kiếm tiền sử dụng cho bản thân mà không bằng sức lao động và công việc hợp pháp. Cụ thể, vào khoảng 16 giờ ngày 12/12/2021 tại ấp Hội An, xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, Đỗ Duy P đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của bà Phạm Thị T1 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiện Honda Wave S110, biển số 71H7-3474 trị giá 5.500.000 đồng. Hành vi đó của bị cáo P đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ của bị hại bà Phạm Thị T1. Do đó hành vi của bị cáo Đỗ Duy P phạm vào “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là phù hợp, đúng quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Duy P là nguy hiểm cho xã hội, làm mất an ninh trật tự tại địa P, gây tâm ly lo lắng, hoài nghi trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo đã nhiều lần vi phạm pháp luật thể hiện qua việc bị cáo đang có tiền án, tiền sự nhưng không khắc phục, sửa chữa mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải áp dụng một hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và góp phần răn đe, phòng ngừa tội phạm. Ngoài ra, xét thấy bị cáo P không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đỗ Duy P phạm tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đỗ Duy P được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, người phạm tội thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Xét về trách nhiệm dân sự, Hội đồng xét xử nhận định: Bị hại bà Phạm Thị T1 đã nhận lại tài sản là xe mô tô biển số 71H7-3474 và không yêu cầu gì thêm nên ghi nhận.

[7] Xét về xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử nhận định: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỏ Cày Nam đã trả lại cho bị hại bà Phạm Thị T1 xe môtô hai bánh biển số 71H7-3474 là phù hợp với quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự nên cần ghi nhận.

[8] Xét về án phí: Bị cáo Đỗ Duy P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Duy P (Út T) phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Duy P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại bà Phạm Thị T1 đã nhận lại tài sản là một xe môtô hai bánh biển số 71H7-3474 và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Về xử lý vật chứng: Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỏ Cày Nam đã trả lại cho bị hại bà Phạm Thị T1 một xe môtô hai bánh biển số 71H7- 3474.

Bị cáo Đỗ Duy P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng. (hai trăm nghìn) Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về