Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2022/TLST- HS ngày 12 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Văn H, (tên gọi khác: Không); sinh ngày 05 tháng 10 năm 1983 tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thôn K, xã D, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T (đã chết) và bà Lê Thị V; có vợ Dương Thị Thanh M và có 02 con; tiền án,tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo đã có án tích cụ thể: Tại Bản án số: 44/2006/HSST ngày 12/5/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt Hoàng Văn H 07 năm tù về Tội cướp tài sản (đã được xóa án tích); chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo bị bắt tạm giữ từ 27/01/2022, tạm giam từ ngày 05/02/2022 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Đinh Khánh D, sinh năm 2002; địa chỉ: Đường P, khu T, thị trấn G, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Lăng Ngọc G, sinh năm 1987; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 27/01/2022, Hoàng Văn H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12K7-1713 của gia đình đi viếng đám ma nhà một người quen tên U ở xã O, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Hoàng Văn H trở về nhà, trên đường đi đến khu vực ngã ba I, thuộc khu T, thị trấn G, huyện C thì xe mô tô của Hoàng Văn H bị thủng lốp sau nên Hoàng Văn H dắt xe quay ngược lại khoảng 50m đưa vào hiệu sửa chữa xe để vá săm xe. Trong khi chờ vá săm xe, đến khoảng 18 giờ cùng ngày thì H đi bộ đến nhà người quen tên I ở khu vực A, khu T, thị trấn G chơi nhưng không gặp nên Hoàng Văn H quay lại cửa hiệu sửa chữa xe để lấy xe đi về nhà thì Hoàng Văn H nhìn thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RS màu sơn đỏ - đen biển kiểm soát 12U1-03190 của anh Đinh Khánh D, trú tại Đường P, khu T, thị trấn G, huyện C đang dựng trước cửa nhà, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện. Quan sát thấy không có ai nên Hoàng Văn H đã nảy sinh ý định trộm cắp lấy chiếc xe này để đi lại, Hoàng Văn H tiến đến ngồi lên xe mở chìa khóa điện, nổ máy và điều khiển xe mô tô đi về xã D, thành phố L, dựng xe mô tô ở bên phải đường cao tốc Quốc lộ E thuộc địa phận thôn N, xã D, thành phố L rồi đi bộ vào nhà anh Nông Văn C tên thường gọi là B, trú tại thôn N, xã D, thành phố L để uống rượu. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày Hoàng Văn H ra lấy xe mô tô đi về thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt và thu giữ các đồ vật gồm: 01 xe mô tô biển kiểm soát 12U1- 03190; 01 chiếc chìa khóa của chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12U1-03190; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng số IMEI 1: 869299029015854, số IMEI 2: 869299029015847 đã qua sử dụng; 01 chiếc kìm bằng kim loại màu trắng đưa về trụ sở Công an thị trấn G, huyện C để xác minh, làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra Hoàng Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội như trên, phù hợp với lời khai của người bị hại Đinh Khánh D, biên bản xác định hiện trường, vật chứng thu giữ và các chứng cứ, tài liệu liên quan thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 03/KL-HĐĐGTS ngày 28/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12U1- 031XX, nhãn hiệu HONDA WAVE RS, màu sơn đỏ- đen, đã qua sử dụng có giá trị được định giá là: 6.150.000đ (sáu triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12U1- 031XX, nhãn hiệu HONDA WAVE RS, màu sơn đỏ- đen là vật chứng của vụ án. Quá trình điều tra, xác định đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bị hại là anh Đinh Khánh D, xét việc trả lại tài sản là cần thiết và không ảnh hưởng đến kết quả điều tra nên ngày 15/3/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô này cùng 01 chìa khóa xe mô tô cho anh Đinh Khánh D.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12K7-1713 mà Hoàng Văn H sử dụng làm phương tiện đi đến thị trấn G, huyện C, qua xác minh đã làm rõ được đây là xe mô tô thuộc sở hữu của vợ H là chị Dương Thị Thanh M, trú tại Thôn K, xã D, thành phố L. Sau khi sự việc xảy ra, chị M đã lấy chiếc xe này về, nên Cơ quan điều tra không thu giữ đối với chiếc xe này.

Tại Bản Cáo trạng số: 15/CT-VKS ngày 12/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn H về Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Mục đích bị cáo trộm cắp chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại của bản thân. Bị cáo biết hành vi của bị cáo là sai và vi phạm pháp luật.

Tại phiên tòa bị hại anh Đinh Khánh D vắng mặt, nhưng lời khai tại Cơ quan điều tra anh Đinh Khánh D trình bày: Khoảng 18 giờ ngày 27/01/2022 tôi đi chợ về và dựng xe máy ở trước cổng rồi đi vào trong sân hộ mẹ dọn nhà. Khoảng 10 phút sau tôi nghe thấy tiếng nổ máy và tiếng xe chạy đi, tôi nhìn ra thì thấy một người đàn ông đang điều khiển xe của tôi đi về hướng A thuộc khu T, thị trấn G, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, tôi đuổi theo nhưng không kịp nên quay về nhà và đi báo Công an. Chiếc xe máy hiện nay tôi đã được Cơ quan điều tra trả lại, tôi không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì cả. Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo Hoàng Văn H theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm Tội trộm cắp tài sản; căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 12 (mười hai) tháng đến 14 (mười bốn) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc kìm bằng kim loại màu trắng do không có giá trị sử dụng; trả lại 01 chiếc điện thoại di động OPPO màu trắng cho bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Còn đối với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12U1- 031XX, nhãn hiệu HONDA WAVE RS, màu sơn đỏ - đen cùng 01 chìa khóa xe mô tô là vật chứng của vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã trả cho sở hữu hợp pháp là bị hại anh Đinh Khánh D. Đề nghị không xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Nhưng xét thấy, bị cáo làm nghề lao động tự do thu nhập không ổn định nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại đầy đủ tài sản.

Không yêu cầu bồi thường gì thêm. Nên không đề nghị xem xét.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng, giải thích hướng dẫn bị cáo về quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý, quyền nhờ người bào chữa theo quy định. Các quyết định, hành vi tố tụng đã được thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người bị hại anh Đinh Khánh D và người chứng kiến anh Lăng Ngọc G đã được triệu tập hợp lệ, anh Đinh Khánh D có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Lăng Ngọc G vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Xét thấy, đã có lời khai của anh D, anh Lăng Ngọc G trong hồ sơ vụ án và việc anh Đinh Khánh D và anh Lăng Ngọc G vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt anh Đinh Khánh D, anh Lăng Ngọc G theo quy định.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với Kết luận định giá tài sản số: 03/KL-HĐĐGTS ngày 28/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 18 giờ ngày 27/01/2022 tại Đường P, khu T, thị trấn G, huyện C, tỉnh Lạng Sơn Hoàng Văn H đã lợi dụng sơ hở thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12U1- 031XX của anh Đinh Khánh D để trước cửa nhà làm phương tiện đi lại cho bản thân. Qua định giá, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12U1- 031XX của anh Đinh Khánh D bị Hoàng Văn H trộm cắp có giá trị là 6.150.000đ (sáu triệu một trăm năm mươi nghìn đồng). Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo Hoàng Văn H là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hoàng Văn H phạm Tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn lấy tài sản của người khác làm tài sản của mình mà cố ý thực hiện tội phạm. Để có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau:

[5] Về nhân thân: Năm 2006 bị cáo đã bị xét xử về Tội cướp tài sản (đã được xóa án tích). Do vậy, bị cáo là người có nhân thân xấu.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai B, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Nhưng xét thấy, bị cáo làm nghề lao động tự do, hiện nay do dịch bệnh covid 19 thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tài sản thu hồi và đã trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã trả 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12U1- 031XX, nhãn hiệu HONDA WAVE RS, màu sơn đỏ- đen cùng 01 chìa khóa xe mô tô là vật chứng của vụ án cho chủ sở hữu hợp pháp là bị hại anh Đinh Khánh D. Hội đồng xét xử không xem xét; đối với 01 chiếc kìm bằng kim loại màu trắng do không có giá trị sử dụng. Tịch thu, tiêu hủy; đối với 01 chiếc điện thoại di động OPPO màu trắng đã qua sử dụng, số IMEL1: 869299029015854, số IMEL2:

869299029015847 do không liên quan đến hành vi phạm tội. Trả lại cho bị cáo.

[11] Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[13] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 292, Điều 293, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm Tội trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 01 (một năm) tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 27/01/2022.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) chiếc kìm kim loại màu trắng.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) chiếc điện thoại di động OPPO màu trắng đã qua sử dụng, số IMEL1: 869299029015854, số IMEL2: 869299029015847.

(Vật chứng trên được ghi chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng, tiền án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về