Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAH’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 19/2020/HS-ST NGÀY 23/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23/4/2020 tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện E mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Đinh T, tên gọi khác: không; sinh năm 1991, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đồng Giang, xã Sơn Giang, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã R, huyện E, tỉnh Đăk Lăk; Dân tộc: H'Rê; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: làm nông; Con ông Đinh R - đã chết và bà Đinh Thị Đ - sinh năm 1963; Tiền án: có 2 tiền án: Ngày 13/11/2012, bị Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 23/2012/HSST; Ngày 27/7/2015, bị Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 09/2015/HSST; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện E từ ngày 09 tháng 8 năm 2019 đến ngày 18 tháng 8 năm 2019 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Đến ngày 15 tháng 3 năm 2020, bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan điều tra. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1985; Trú tại: Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn xin xét xử vắng mặt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Duy T, sinh năm 1958; Trú tại: Thôn C, xã R, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn xin xét xử vắng mặt;

2. Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1997; Trú tại: Buôn H 1, xã H, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào khoảng 21 giờ ngày 04/8/2019, Đinh T đi bộ đến khu vực nhà rẫy của ông Nguyễn Thanh H, ở thôn A, xã R, huyện E. Thấy nhà rẫy không có ai nên Tiêu đã lấy một thanh kim loại cạy mái tôn nhà bếp vào bên trong lấy một cái cưa lốc màu đỏ nhãn hiệu GL 5200 M rồi Tiêu mang cưa lốc đi về phía nhà rẫy của ông H (nơi T làm thuê) cất giấu. Đến sáng ngày 05/8/2019, T mang máy cưa lốc đến bán cho ông Nguyễn Duy T, ở Thôn C, xã R, huyện E được số tiền 400.000 đồng. Đến khoảng 20 giờ, ngày 05/8/2019, Đinh T tiếp tục đi sang nhà rẫy của ông H lấy trộm 01 máy khoan hố đất màu đỏ, loại máy cầm tay, có gắn mũi khoan đem đi bán, trên đường đi T đã tháo mũi khoan vứt xuống suối tại khu vực thôn 6A, xã R, huyện E. Đến sáng ngày 06/8/2019, T mang máy khoan bán cho anh Nguyễn Văn K ở Buôn H, xã H, huyện E với giá 300.000 đồng. Đến ngày 09/8/2019, ông Nguyễn Thanh H phát hiện mất tài sản và nghi ngờ Đinh T lấy nên đã trình báo với Công an xã R. Tại Công an xã R, Đinh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Sau khi nhận kết luận điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E, bị can Đinh T đã bỏ trốn. Đến ngày 15/3/2020 bị can bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 563/BB-ĐGTS ngày 13/8/2019, của Hội đồng định giá tài sản huyện E, kết luận: Máy cưa lốc nhãn hiệu GL 5200M trị giá 1.000.000 đồng; 01 máy khoan hố đất trị giá 2.000.000 đồng; 01 mũi khoan của máy khoan hố đất trị giá 400.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 3.400.000 đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã thu giữ: 01 máy cưa lốc màu đỏ loại GL 5200 M và 01 máy khoan hố đất cầm tay màu đỏ không có mũi khoan; 01 thanh kim loại hình trụ tròn, màu nâu dài 50 cm đường kính 1,8 cm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả máy cưa lốc và máy khoan cho ông Nguyễn Thanh H là chủ sở hữu hợp pháp. Đối với 01 mũi khoan, T đã vứt tại khu vực suối thuộc thôn A, xã R, huyện E, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đã truy tìm nhưng không có kết quả.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với nhau và nội dung bản cáo trạng là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với bị cáo, đưa ra các chứng cứ buộc tội và đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, đồng thời giữ nguyên nội dung Cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 18 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện E truy tố đối với đối với Đinh T về tội “Trộm cắp tài sản" theo điểm g khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Về tình tiết tăng nặng: không Về tình tiết giảm nhẹ: Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo Đinh T mức hình phạt từ 2 năm 6 tháng tù đến 3 năm tù;

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:

- Chấp nhận việc cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện E đã giao trả 01 máy cưa lốc màu đỏ loại GL 5200 M và 01 máy khoan hố đất cầm tay màu đỏ không có mũi khoan cho ông Nguyễn Thanh H là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại hình trụ tròn, màu nâu dài 50 cm đường kính 1,8 cm.

Đối với ông Nguyễn Duy T và anh Nguyễn Văn K có hành vi mua tài sản của Đinh T nhưng không biết tài sản này do trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý.

Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố và cũng không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo trình bày lời sau cùng: Bị cáo không trình bày lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện E, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện E, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Từ ngày 04 đến ngày 06 tháng 8 năm 2019, lợi dụng sự sơ hở của ông Nguyễn Thanh H, bị cáo đã có hành vi cạy mái tôn vào nhà rẫy của ông Hải trộm cắp 01 máy cưa lốc màu đỏ loại GL 5200 M và 01 máy khoan hố đất cầm tay màu đỏ và 01 mũi khoan để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Theo kết luận của Hội đồng định giá, tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 3.400.000 đồng.

Như vậy hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cầu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Đinh T đã có 2 tiền án, đã tái phạm chưa được xoá án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên áp dụng tinh tiết định khung tăng nặng tái phạm nguy hiềm theo điểm g, khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Tại khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định như sau:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

.............

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:

g. Tái phạm nguy hiểm Đối với ông Nguyễn Duy T có hành vi mua 01 máy cưa lốc và anh Nguyễn Văn K mua 01 máy khoan hố đất của Đinh T, khi mua ông T và anh K không biết tài sản do Đinh T trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý.

Lời luận tội của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ngoài việc xâm hại đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, còn gây mất ổn định về an ninh, trật tự tại địa phương, làm cho người dân hoang mang, lo lắng. Bị cáo đã có 2 tiền án nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Xét thấy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm trừng trị, đồng thời giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật.

[3].Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản đã trả về cho chủ sở hữu. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Nguyễn Thanh H, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Duy T và anh Nguyễn Văn K không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

[5]. Về xử lý vật chứng: Cần chấp nhận việc cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện E đã giao trả 01 máy cưa lốc màu đỏ loại GL 5200 M và 01 máy khoan hố đất cầm tay màu đỏ không có mũi khoan cho ông Nguyễn Thanh Hải là chủ sở hữu hợp pháp; tịch thu tiêu hủy 01 cây sắt không còn giá trị sử dụng.

[6]. Về án phí: Bị cáo Đinh T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đinh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS; điểm h, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Đinh T 02 năm 09 tháng (Hai năm chín tháng) tù. Thời hạn tính từ ngày bắt theo quyết định truy nã của Công an huyện E, ngày 15 tháng 3 năm 2020, khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/8/2019 đến ngày 18/8/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Chấp nhận việc cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện E đã giao trả 01 máy cưa lốc màu đỏ loại GL 5200 M và 01 máy khoan hố đất cầm tay màu đỏ không có mũi khoan cho ông Nguyễn Thanh H là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại hình trụ tròn, màu nâu dài 50 cm đường kính 1,8 cm không còn giá trị sử dụng (đặc điểm vật chứng như tài liệu lưu trong hồ sơ vụ án).

Về án phí: Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc Hội, bị cáo Đinh T phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2020/HS-ST

Số hiệu:19/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về