Bản án về tội trộm cắp tài sản số 182/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 182/2023/HS-ST NGÀY 27/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 95/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2023. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Đỗ Đăng K (tên gọi khác: T), sinh năm 1988; nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính; Nam; Nơi cư trú: Không có nơi cư trú nhất định (không có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú); nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 02/12; Cha: Đỗ Văn T1 (không rõ năm sinh, không rõ còn sống hay đã chết); Mẹ: Đỗ Thị Ph , sinh năm 1956, còn sống; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 24/3/2022, bị Tòa án nhân dân (TAND) thành phố BH, tỉnh ĐN xử phạt 10 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự số 108/2022/HS-ST (chưa được xoá án tích); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28/10/2022 theo Quyết định tạm giữ số 372/QĐ-CSĐT- ĐTTH, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1160/LTG-ĐTTH ngày 04/11/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa; Bị cáo hiện đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai; Bị cáo có mặt.

2. Nguyễn Văn Đ (tên gọi khác: không), sinh năm 1987; nơi sinh: Đồng Nai; giới tính; Nam; Nơi cư trú: Khu phố 3, phường QV, thành phố BH, tỉnh ĐN; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 3/12; Cha: Nguyễn Quang Đ1, sinh năm 1966 (chết); Mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1968, còn sống; Gia đình bị cáo có 05 chị em, bị cáo là thứ ba trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21/7/2009, bị TAND thành phố BH, tỉnh ĐN xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số: 397/2009/HSST; ngày 13/4/2017, bị TAND thành phố BH, tỉnh ĐN xử phạt 03 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em” theo bản án hình sự sơ thẩm số: 131/2017/HSST (Đã được xoá án tích theo quy định); bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28/10/2022 theo Quyết định tạm giữ số 371/QĐ-CSĐT-ĐTTH, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1159/LTG-ĐTTH ngày 04/11/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa; Bị cáo hiện đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai; Bị cáo có mặt.

*Bị hại: Bà Hoàng Thị Tố T2, sinh năm 1997; Địa chỉ: 22C khu phố 4, phường QV, thành phố BH, tỉnh ĐN (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Đăng K là đối tượng không có nơi cư trú nhất định, có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”; Nguyễn Văn Đ là đối tượng từng có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 tiền án về tội “Giao cấu với trẻ em” đã được xóa án tích.

Vào khoảng 22 giờ ngày 27/10/2022, do không có tiền tiêu xài nên Đỗ Đăng K rủ Nguyễn Văn Đ đi trộm cắp tài sản thì Đ đồng ý. Đ điều khiển xe mô tô biển số 59Z2- xxx (xe của K) chở K ngồi phía sau đi đến trước nhà số 22C, khu phố 4, phường QV, thành phố BH do chị Hoàng Thị Tố T2, sinh năm 1997 làm chủ, thấy cửa nhà mở, Đ đứng ngoài cảnh giới, K đi vào trong nhà lấy trộm 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, màu đen, 01 bàn phím máy tính, 01 con chuột máy tính có dây, đã qua sử dụng để ở trên bàn trong phòng khách đưa ra cho Đ cầm rồi Khoa tiếp tục đi vào lấy trộm 01 chiếc xe mô tô hiệu Ablade, biển số 47L1–xxx đưa ra ngoài rồi cùng Đ điều khiển xe tẩu thoát. Sau khi lấy trộm tài sản, Đ và K đem cầm cố xe mô tô biển số 47L1-xxx cho anh Võ Hoàng T, sinh năm 1985, ngụ tại khu phố 3, phường AH, thành phố BH là bạn quen biết ngoài xã hội của K với giá 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) chia nhau tiêu xài. Đối với chiếc máy tính xách tay, kèm theo bàn phím và con chuột, K và Đ gửi lại cho anh T3 nhờ bán nhưng T3 không bán được nên ngày 28/10/2022, K và Đ gặp T3 nhận lại. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, khi K và Đ đang mang theo chiếc máy tính trộm cắp được đi đến khu vực đường Nguyễn Du, khu phố 4, phường QV, thành phố BH thì bị Công an phường QV phát hiện nghi vấn nên đưa về trụ sở làm việc. Đồng thời thu giữ từ Khoa và Được số tài sản trộm cắp trên; Đối với chiếc xe mô tô biển số 47L1-xxx, sau khi biết được thông tin xe do Khoa trộm cắp thì Võ Hoàng T3 do lo sợ liên quan nên không trực tiếp đưa xe đến Công an để giao nộp. Ngày 29/10/2022, T3 đưa xe trên đến khu vực gần Công an phường QV bỏ lại, mục đích để Công an phát hiện thu giữ. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, anh Trần Minh H, sinh năm 1995, ngụ tại khu phố 4, phường QV, thành phố BH phát hiện báo Công an phường QV tạm giữ chiếc xe trên. Công an phường QV lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội như nội dung đã nêu trên.

* Vật chứng vụ án gồm:

+ 01 chiếc xe mô tô biển số 47L1-xxx do ông Hoàng Đạo C, sinh năm 1967, thường trú: Thị trấn BT, huyện KA, tỉnh ĐL đứng tên chủ sở hữu, ông C đã tặng cho con gái là chị Hoàng Thị Tố T2. Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị T2.

+ 01 máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, cùng 01 bàn phím và 01 con chuột có dây kèm theo là tài sản của chị Hoàng Thị Tố T2. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T2.

+ Số tiền 1.250.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) K giao nộp cho Công an phường QV là tiền cầm cố xe mô tô biển số 47L1-xxx. Đây là tiền của anh Võ Hoàng T3, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T3.

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen, là tài sản của Đỗ Đăng K, không liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra đã trả lại cho K.

+ 01 chiếc xe mô tô hiệu Sirius, biển số: 59Z2-xxx, qua tra cứu xác định được biển số xe mô tô trên là giả, chưa làm việc được với chủ sở hữu chiếc xe. Cơ quan điều tra tách ra làm rõ xử lý sau.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 1900/KL-HĐĐGTS, ngày 01/11/2022, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa kết luận: Xe mô tô biển số 47L1-xxx có giá trị 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng); 01 máy tính xách tay nhãn hiệu DELL có giá trị 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Tổng giá trị tài sản định giá là 19.000.000 đồng (mười chín triệu đồng).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2193/KL-HĐĐGTS ngày 17/11/2022, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa kết luận: 01 con chuột máy tính M100R-U0026 có giá trị 95.200 đồng (Chín mươi lăm nghìn hai trăm đồng); 01 bàn phím máy tính Newmen E400-AMG có giá trị 111.300 đồng (Một trăm mười một nghìn ba trăm đồng). Tổng giá trị tài sản định giá là 206.500 đồng (Hai trăm lẻ sáu nghìn năm trăm đồng).

Về dân sự:

- Bà Hoàng Thị Tố T2 đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường gì thêm;

- Ông Võ Hoàng T2 đã nhận lại số tiền 1.250.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Cáo trạng số: 112/CT-VKSBH ngày 21/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với các bị cáo Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (Áp dụng đối với bị cáo K) của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017):

+ Xử phạt bị cáo Đỗ Đăng K mức án từ 20 đến 22 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ mức án từ 16 đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về xử lý vật chứng: Không.

- Về trách nhiệm dân sự: Không.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, các bị cáo, bị hại không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Các bị cáo Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ nói lời sau cùng: Kính xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, các bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đối chiếu lời khai các bị cáo tại phiên toà với lời khai của các bị cáo, bị hại và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có tại hồ sơ đủ cơ sở kết luận: Ngày 27/10/2022, Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ đã có hành vi lét lút đột nhập vào nhà của bà Hoàng Thị Tố T2, sinh năm 1997, địa chỉ: 22C khu phố 4, phường QV, thành phố BH lấy trộm 01 máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, màu đen, 01 bàn phím máy tính, 01 con chuột máy tính có dây, 01 chiếc xe mô tô hiệu Ablade, biển số 47L1- xxx đưa ra ngoài rồi tẩu thoát. Tổng giá trị các tài sản mà các bị cáo K và Đ chiếm đoạt là 19.206.500đ (Mười chín triệu hai trăm linh sáu ngàn năm trăm đồng) (Theo Bản kết luận định giá tài sản số 1900/KL-HĐĐGTS ngày 01/11/2022 và Bản kết luận định giá tài sản số 2193/KL-HĐĐGTS ngày 17/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa).

Hành vi nêu trên của các bị cáo Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” và bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đồng phạm giản đơn, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện nhằm cải tạo, giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo:

- Đối với bị cáo Đỗ Đăng K: Bị cáo là người rủ rê bị cáo Nguyễn Văn Đ đi trộm cắp tài sản, đồng thời là người trực tiếp đột nhập vào nhà của bị hại Hoàng Thị Tố T2 lấy trộm tài sản. Sau khi lấy trộm tài sản, bị cáo cùng với Đ tích cực mang tài sản đi tiêu thụ. Bị cáo có tiền án, ngày 24/3/2022, bị TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự số 108/2022/HS-ST (Chưa được xoá án tích), bị cáo không soi bản án trên làm bài học cho bản thân mà tiếp tục cố ý phạm tội trộm cắp tài sản, coi thường pháp luật. Hành vi nêu trên của bị cáo cần phải xử phạt mức án nghiêm và cao hơn bị cáo Đ.

- Đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ: Khi bị cáo K rủ bị cáo đi trộm cắp tài sản thì bị cáo đồng ý ngay. Bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 59Z2-xxx chở K ngồi phía sau đi đến trước nhà số 22C, khu phố 4, phường QV, thành phố BH do chị Hoàng Thị Tố T2, sinh năm 1997 làm chủ, đứng ngoài cảnh giới để K đột nhập vào trong nhà bị hại lấy trộm tài sản. Sau khi lấy trộm được tài sản bị cáo cùng với K tích cực mang tài sản đi tiêu thụ. Bị cáo đã từng có 02 tiền án: Ngày 21/7/2009, bị TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số: 397/2009/HSST; ngày 13/4/2017, bị TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em” theo bản án hình sự sơ thẩm số:

131/2017/HSST (Đã được xoá án tích theo quy định), bị cáo không soi các bản án trên làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Hành vi nêu trên của bị cáo cũng cần phải xử phạt mức án nghiêm nhưng thấp hơn so với bị cáo K.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo K và Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, học vấn thấp theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo K có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là ‘Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Bị cáo Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về nhân thân: Các bị cáo K và Đ đều có nhân thân xấu.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô, biển số 47L1-xxx do ông Hoàng Đạo C, sinh năm 1967, thường trú: Thị trấn BT, huyện KA, tỉnh ĐL đứng tên chủ sở hữu, ông C đã tặng cho cho con gái là bà Hoàng Thị Tố T2, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà T2.

- 01 máy tính xách tay nhãn hiệu DEL, 01 bàn phím và 01 con chuột có dây kèm theo là tài sản của bà Hoàng Thị Tố T2, Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho bà T2.

- Số tiền 1.250.000đ (Một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) K giao nộp cho Công an phường QV. Đây là số tiền K cầm cố xe mô tô, biển số 47L1-xxx mà có. Số tiền này là của ông Võ Hoàng T3, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông T3.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen, là tài sản của Đỗ Đang K không liên quan đến việc phạm tội, cơ quan điều tra đã trả lại cho K.

- 01 chiếc xe mô tô hiệu Sỉius, biển số 59Z2-xxx, qua tra cứu xác định được biển số xe trên là giả, chưa làm việc được với chủ sỡ hữu chiếc xe, Cơ quan điều tra tách ra điều tra làm rõ xử lý sau.

[7]. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

- Bà Hoàng Thị Tố T2 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên HĐXX không xét.

- Ông Võ Hoàng T3 đã nhận lại số tiền 1.250.000đ, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên HĐXX không xét.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Các bị cáo Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[10]. Đối với Võ Hoàng T3 khi nhận cầm cố xe mô tô biển số 47L1-xxx và nhận bán giúp máy tính xách tay nhãn hiệu DELL không biết những tài sản trên do phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với T3 về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (Áp dụng đối với bị cáo K) của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); các Điều 45, 135, 136, 326, 327, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố các bị cáo Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Đăng K 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/10/2022.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/10/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Không.

3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Không.

4. Về án phí: Các bị cáo Đỗ Đăng K và Nguyễn Văn Đ mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

5. Về kháng cáo: Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại bà Hoàng Thị Tố T2 vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 182/2023/HS-ST

Số hiệu:182/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về