Bản án về tội trộm cắp tài sản số 18/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 18/2023/HS-ST NGÀY 02/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 02 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án Toà án nhân dân huyện Bù Đăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 16/TLST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/QĐXX- ST ngày 17 tháng 2 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn H H, tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1976, tại TP. Hồ Chí Minh.

Căn cước công dân số: 07907603xxxx do Cục Cảnh sát QLHCTTXH cấp ngày 01/3/2022. Nơi cấp: Cục cảnh sát hành chính về trật tự xã hội.

Nơi thường trú: 64/7 Đường số 14, khu phố 15, phường A, quận B, TP. Hồ Chí Minh.

Nơi ở hiện tại: Thôn Sơn T, xã PS, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước.

Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm thuê, Trình độ học vấn: 04/12. Họ và tên cha: Nguyễn Kim S. Họ và tên mẹ: Trầm Diệp Y. Họ và tên vợ: Phòng A H, có 01 người con sinh năm 2002.

Tiền án: Không. ( Ngày 10/01/2019 bị Toà án nhân dân Thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. H đã chấp hành xong bản án, đã đóng án phí nên được đương nhiên xoá án tích).

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/11/2022 đến nay. ( có mặt )

 Những người tham gia tố tụng:

Người bị hại: Nguyễn Thị Th T; Sinh năm 1981 ( vắng mặt ) Địa chỉ: thôn S, xã Thọ Sơn, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Phòng A H; Sinh năm 1980. ( có mặt ) Địa chỉ: thôn T, xã S, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

1/Về hành vi phạm tội của bị cáo : Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 15/11/2022, Nguyễn H H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 51F9 - xxxx (là xe của H) đến quán cơm của chị Nguyễn Thị Thuỳ T thuộc thôn Sơn Thuỷ, xã Thọ Sơn, huyện Bù Đăng để mua đồ ăn. Khi đến nơi, H đi vào trong quán, H nhìn thấy điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng, được gắn ốp lưng màu đen của chị T, để trong cốp đựng đồ phía trước bên trái của xe mô tô biển kiểm soát 93P1-xxxxx. Tức thì, H dùng tay lấy điện thoại bỏ vào trong túi quần, rồi đi ra khỏi quán điều khiển xe mô tô đi về hướng xã S. Khi về đến gần nhà thuộc thôn T, xã S, H kiểm tra điện thoại vừa trộm cắp thấy bên trong ốp lưng điện thoại có 800.000 đồng, H lấy 800.000 đồng tiêu xài, còn điện thoại cài đặt mật khẩu thì H không mở được, nên H cất giấu điện thoại ở ven đường trong bụi cây, chiếc ốp lưng điện thoại H ném vào lề đường rồi đi về nhà. Một lúc sau, H quay lại nơi cất giấu điện thoại mang về nhà để ở dưới đầu giường ngủ. Khi phát hiện mất tài sản, chị T làm đơn trình báo Công an xã Thọ Sơn. Nhận thức thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên ngày 18/11/2022, H đã đến Công an xã Thọ Sơn đầu thú, khai nhận toàn bộ sự việc phạm tội của mình và giao nộp điện thoại. Công an xã Thọ Sơn lập biên bản chuyển giao cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bù Đăng để điều tra, xử lý theo thẩm quyền (BL 01-02, 25, 41-53).

Tai Kết luận định giá số 158/KL-ĐG ngày 22/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự (BL: 23), kết luận tại thời điểm xảy ra tội phạm:

01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng mua vào năm 2019, giá trị còn lại: 2.200.000 đồng/01 cái.

01 ốp lưng của dòng điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus bằng nhựa, màu đen, giá: 50.000 đồng/01 cái.

2/ Các vấn đề khác của vụ án:

Về vật chứng vụ án, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bù Đăng đã xử lý:

Trả 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị Thuỳ T.

01 xe mô tô biển kiểm soát 51F9-xxxx, H đã bán xe cho người khác (không rõ nhân thân, lý lịch), nên không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị Th T đã nhận lại 01 điện thoại và nhận bồi thường 4.000.000 đồng, không yêu cầu gì thêm.

Tại Bản cáo trạng số 16 /CT – VKS ngày 10/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Nguyễn H H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật đối với Nguyễn H H như sau:

Về tội danh và hình phạt : Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn H H phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo 1 Điều 173 Bộ luật hình sự .

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm b, h, s khoản 1, 2 Điều 51, 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn H H từ 6 đến 09 tháng tù .

Về vật chứng vụ án: Đã trả lại chủ sở hữu nên không xem xét.

Ý kiến về Quyết định truy tố: Bị cáo đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1/ Về hành vi, quyết định tố tụng của: Cơ quan điều tra Công an huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong qua trình điều tra truy tố thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến đề nghị hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

2/ Xác định tội danh:

Lời khai của bị cáo và bị hại hoàn toàn phù hợp với nhau nên có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 15/11/2022 tại quán cơm của chị Nguyễn Thị Th T thuộc thôn Sơn Thuỷ, xã Thọ Sơn, huyện Bù Đăng, Nguyễn H H có hành vi lén lút chiêm đoat 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng, được gắn ốp lưng màu đen của chị Nguyễn Thị Thuỳ T đang để trong cốp đựng đồ phía trước bên trái của xe mô tô biển kiểm soát 93P1-xxxxx.

Điện thoại trị giá là 2.200.000 đồng đồng. 01 ốp lưng của điện thoại màu đen, giá:

50.000 đồng và số tiền 800.000 đồng kẹp trong ốp lưng điện. Tổng trị giá 3.050.000đ.

Bị cáo có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, thực hiện với lỗi cố ý và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác, đây là quyền về tài sản được pháp luật bảo vệ, hành vi của bị các cáo làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Hậu quả bị cáo đã chiếm đoạt tài sản của bị hại tổng trị giá 3.050.000đ.

Vì vậy hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo Nguyễn H H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

3/ Các tình tiết tặng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các tình tiết tặng nặng: Không có.Tuy nhiên về mặt nhân thân thì bị cáo từng có tiền án về tội trộm cắp tài sản thể hiện nhân thân sấu.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại cho bị hại, thiệt hại xảy ra không lớn. Ngoài ra bị cáo ra đầu thú, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau khi xem xét hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử lý phù hợp hành vi phạm tội để giáo dục bị cáo và răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

4/ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì nên không xem xét.

5/ Về vật chứng: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì nên không xem xét.

6/Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn H H nộp 200.000đ án phí HSST .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Về tội danh và hình phạt : Tuyên bố bị cáo Nguyễn H H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm b, h, s khoản 1, 2 Điều 51, 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn H H 6 ( sáu ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/11/2022.

2/ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì nên không xem xét.

3/ Về vật chứng: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì nên không xem xét.

4/ Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ -UBTVQH14 Ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí của Toà án, buộc bị cáo Nguyễn H H phải nộp 200.000đ án phí HSST 5/.Quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích lục bản án hoặc bản sao bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 18/2023/HS-ST

Số hiệu:18/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về