TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TIÊN - TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 18/2023/HS-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 31 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2023 đối với:
Bị cáo: Khổng Hữu N (tên gọi khác: L), sinh ngày 12/4/1988; Nơi sinh: Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT: Khu phố 3, phường Đ, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: Khu phố 4, phường B, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; CMND số: 371324033; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; T giáo: không; quốc tịch: Việt N; con ông Khổng Hữu T và bà Nguyễn Thị L; chung sống như vợ chồng với Trần Thị Mộng Th; con 02 người, lớn nhất sinh năm 2020, nhỏ nhất sinh năm 2022; tiền án: không; tiền sự: có 01 tiền sự về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định số 469/QĐ-XPHC ngày 15/8/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; bị cáo bị áp dụng bị tạm giam từ ngày 17/01/2023 đến nay theo Quyết định tạm giam Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên và Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, bị cáo có mặt.
Bị hại:
1. Ban Quản lý công trình đô thị thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Người đại diện theo pháp luật ông Châu Thanh C, sinh năm 1983, chức vụ: Trưởng ban.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Tuấn E, sinh năm 1967, chức vụ: Phó Trưởng ban. Địa chỉ: Khu phố 2, phường P, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Có mặt
2. Nhà máy bột cá Hà Tiên. Địa chỉ: Ấp N, xã T, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Chủ sở hữu: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1964.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Chu Hồng H, sinh năm 1979. Địa chỉ:
Ấp C, xã H, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phạm Ngọc T, sinh năm 1955. Địa chỉ: số 3A, đường Hồ Văn Huê, phường 9, quận P, thành phố hồ Chí Minh. Vắng mặt
2. Ông Tạ Ngọc N, sinh năm 1982. Địa chỉ: tổ 7, khu phố 3, phường T, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Có đơn xin vắng mặt
Người làm chứng:
1. Bà Huỳnh Thị Hồng X. Có đơn xin vắng mặt 2. Ông Võ Thành T. Có đơn xin vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng 23 giờ ngày 10/11/2022, Khổng Hữu N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 53R9-7753 từ khu phố 4, phường Bình San, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang đến Nhà máy bột cá thuộc ấp N, xã T, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. N mang theo mỏ lết, kéo cắt loại lớn, kìm cộng lực và dao. N để xe bên ngoài, mang theo các dụng cụ đã chuẩn bị sẵn nhảy qua bờ tường, đột nhập vào bên trong nhà máy bột cá, N phát hiện trụ điện gần khu vực để máy phát điện có nhiều dây điện đã mở đầu nối, N lén lút trèo lên cột điện dùng mỏ lết mở đầu nối bên trên nhưng không mở được nên dùng kéo cắt thành từng đoạn ngắn thả xuống đất, mang đi cất giấu bên hông nhà máy, rồi quay lại tiếp tục rút dây điện, cắt thành từng đoạn nhỏ. Đến khoảng 01 giờ ngày 11/11/2022 ông Võ Thành T và vợ là bà Huỳnh Thị Hồng X đi kiểm tra xung quanh thì phát hiện N đang cắt trộm dây điện, ông T dùng đoạn tre dài khoảng 02m, đâm trúng vào người của N thì N bỏ chạy làm rơi lại cái nón màu đen và bỏ lại toàn bộ dụng cụ cắt dây điện, xe máy biển kiểm soát 53R9-7753, ông T đến Công an xã T trình báo sự việc, quá trình làm việc tại Công an xã T, Khổng Hữu N hoàn toàn thừa nhận hành vi vi phạm nên ngày 11/11/2022 Công an xã T lập biên bản vi phạm hành chính đối với N và tạm giữ toàn bộ tang vật, phương tiện có liên quan đến vụ việc, sau khi xác minh thu thập chứng cứ xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm nên Công an xã Tđã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tiên để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Quyết định số 02/QĐ-CHS ngày 17/11/2022.
Quá trình điều tra Khổng Hữu N hoàn toàn thừa nhận hành vi nên Cơ quan Cảnh sát điều tra thành phố Hà Tiên khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Khổng Hữu N.
Tại Kết luận định giá tài sản số 27/KL-HĐĐGTS ngày 29/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Hà Tiên, kết luận:
- Dây điện chiều dài 0,88m, đường kính 03cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen, thời điểm định giá ngày 11/11/2022 có giá 264.000 đồng;
- Dây điện dài 28,44m (gồm 21 đoạn) đường kính 2,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen, thời điểm định giá ngày 11/11/2022 có giá 5.688.000 đồng;
- Dây điện dài 1,5m (gồm 02 đoạn) đường kính 1,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen, thời điểm định giá ngày 11/11/2022 có giá 225.000 đồng;
- Dây điện dài 4,47m (gồm 03 đoạn) đường kính 1,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen, thời điểm định giá ngày 11/11/2022 có giá 670.000 đồng;
Tổng giá trị tài sản qua định giá tại thời điểm ngày 11/11/2022 là 6.847.000 đồng.
Lần thứ hai: Khoảng 10 giờ ngày 02/01/2023 tại khu phố 4, phường Bình San, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, Khổng Hữu N mang theo 02 cây búa, 01 cây leng đào đất, 01 cây xà beng, 01 cây cưa màu xanh đến đường Phù Dung phát hiện một nắp cống bê Tg kích thước (1,1 x 0,7)m, bị bể vỡ gần hết phần bê Tg, lộ sắt ra ngoài do Ban quản lý công trình đô thị thành phố Hà Tiên quản lý, N lén lút dùng búa đập để lấy trộm 12 cây kim loại sắt phi 6, trọng lượng 2,3kg; 06 cây kim loại sắt phi 10, trọng lượng 2,5kg và 06 cây kim loại sắt phi 12, trọng lượng 3,6k, dạng tròn đã rỉ sét để bán lấy tiền tiêu xài thì bị lực lượng Công an phường Bình San phát hiện và thu giữ toàn bộ tang vật có liên quan, đưa N về trụ sở làm việc. Qua làm việc N thừa nhận toàn bộ hành vi vi phạm. Quá trình xác minh xác định Khổng Hữu N đã từng bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P thành phố Hà Tiên xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng theo quyết định số 469/QĐ- XPHC ngày 15/8/2022, đến ngày vi phạm chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nên Công an phường B đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc vi phạm có dấu hiệu tội phạm đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tại Kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐGTS ngày 16/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Hà Tiên, kết luận:
- 12 cây kim loại sắt phi 6, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 2,3kg (đã qua sử dụng) tại thời điểm định giá ngày 02/01/2023 là 20.700 đồng.
- 06 cây kim loại sắt phi 10, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 2,5kg (đã qua sử dụng) tại thời điểm định giá ngày 02/01/2023 là 22.500 đồng.
- 06 cây kim loại sắt phi 12, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 3,6kg (đã qua sử dụng) tại thời điểm định giá ngày 02/01/2023 là 32.400 đồng.
Tổng giá trị tài sản tại thời điểm định giá là 75.600 đồng.
Vật chứng trong vụ án:
1. Dây điện chiều dài 0,88m, đường kính 03cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
2. Dây điện dài 28,44m (gồm 21 đoạn) đường kính 2,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
3. Dây điện dài 1,5m (gồm 02 đoạn) đường kính 1,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
4. Dây điện dài 4,47m (gồm 03 đoạn) đường kính 1,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
5. Một cây kéo cắt cộng lực dài 62cm, tay cầm bộc nhựa màu xanh, có chữ TOTAL (đã qua sử dụng);
6. Một cây kéo cắt cộng lực dài 21cm, tay cầm bộc nhựa màu xanh (đã qua sử dụng);
7. Một cây kéo cắt ống dài 20cm, có chữ LS+ (đã qua sử dụng);
8. Một cây xà beng dài 59cm, lưỡi rộng 07cm, cán bộc nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
9. Một cây dao dài 26cm, cán nhựa màu xanh (đã qua sử dụng);
10. Một cái mũ lưỡi trai màu xám, bên trên có chữ THE NORTH FACE (đã qua sử dụng);
11. Một cái mỏ lết dài 25cm, có chữ FORGED (đã qua sử dụng);
12. Một đôi dép màu đỏ sọc đen, có chữ OUWA (đã qua sử dụng);
13. Một cây búa dài 43cm, cán làm bằng gỗ dài 38,5cm, đường kính 01cm;
đầu búa làm bằng kim loại đầu 4,5cm, rộng 03cm (đã qua sử dụng);
14. Một cây búa dài 81,5cm, cán làm bằng gỗ dài 79cm, đường kính 3,5cm;
đầu búa làm bằng kim loại đầu 6,5cm, có dạng hình trụ có kích thước (2,5 x 16 x 6,5)cm (đã qua sử dụng);
15. Một cây cưa 41cm, cán làm bằng kim loại, màu sơn đỏ, có lưỡi dài 31cm (đã qua sử dụng);
16. Một cây cưa 31cm, làm bằng kim loại, màu sơn xanh (đã qua sử dụng);
17. Một cây xà beng dài 85cm, làm bằng kim loại sắt (đã qua sử dụng);
18. Một cây len đào đất dài 49cm, cán làm bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại (đã qua sử dụng);
19. Một cây len đào đất dài 59cm, lưỡi rộng 07cm, cán bọc nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
20. Mười hai cây kim loại sắt phi 6, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 2,3kg (đã qua sử dụng);
21. Sáu cây kim loại sắt phi 10, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 2,5kg (đã qua sử dụng);
22. Sáu cây kim loại sắt phi 12, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 3,6kg (đã qua sử dụng);
23. Một xe máy biển kiểm soát số 53R9-7753, màu sơn đỏ, số máy:
150FG4P101732; số khung: RRKWCB5UMCXB07047, không có giấy đăng ký x mô tô, xe máy theo quy định (đã qua sử dụng);
Các vật chứng nêu trên hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên.
Tại Bản cáo trạng số 14/CTr-VKSHT, ngày 09/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên đã truy tố bị cáo Khổng Hữu N về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Khổng Hữu N mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy các vật chứng từ mục số 1 đến mục số 22 do chủ sở hữu không nhận lại và một số công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước vật chứng mục số 23 là phương tiện bị cáo sử dụng trong quá trình thực hiện tội phạm.
Trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Phạm Thị T (ủy quyền cho ông Chu Hồng H) không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại. Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại theo kết quả định giá là 75.600 đồng cho Ban Quản lý công trình đô thị thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.
Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thành phố Hà Tiên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là đúng pháp luật.
[2] Sự có mặt của những người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Tạ Ngọc N, người làm chứng ông Võ Thành T, bà Huỳnh Thị Hồng X có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Người đại diện theo ủy quyền của bị hại ông Chu Hồng Hà, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Ngọc T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.
[3] Về hành vi bị truy tố của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai của những người tham gia tố tụng và các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo hai lần lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, lần thứ nhất là dây điện của Nhà máy bột cá với tổng giá trị tài sản qua định giá tại thời điểm ngày 11/11/2022 là 6.847.000 đồng; lần thứ hai là các cây kim loại bằng sắt trong nắp cống trên đường Phù Dung thuộc sự quản lý của Ban quản lý công trình đô thị thành phố Hà Tiên, tổng giá trị tài sản tại thời điểm định giá là 75.600 đồng. Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định như sau:
“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản.
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.” Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật công nhận và bảo vệ, xâm phạm an toàn, trật tự công cộng của xã hội. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo: Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo lợi dụng lúc đêm khuya, lén lút thực hiện hành vi trộm cắp với sự liều lĩnh, bị cáo cắt dây diện của Nhà máy bột cá để bán, lấy trộm sắt trong nắp đậy cống trên đường giao thông, phá hoại công trình công cộng của nhà nước, làm mất mỹ quang đô thị, vừa gây thiệt hại về kinh tế cho bị hại, vừa nguy hiểm cho tính mạng của bị cáo, thậm chí gây nguy hiểm cho tính mạng của người khác nếu không được phát hiện kịp thời.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngày 15/8/2022 Khổng Hữu N đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp, do đó bị cáo có nhân thân xấu.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi xem xét hình phạt đối với bị cáo.
[6] Về hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo Khổng Hữu N mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 53R9-7753, màu sơn đỏ, số máy: 150FG4P101732; số khung: RRKWCB5UMCXB07047, không có giấy đăng ký xe mô tô, xe máy theo quy định bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, qua xác minh do ông Phạm Ngọc Thọ đăng ký sở hữu, quá trình điều tra ông Thọ thừa nhận có đăng ký sở hữu chiếc xe mô tô nêu trên hộ cho một người khác nhưng không nhớ họ tên và đã lâu không còn liên lạc nên không tìm được người này, bị cáo khai mua tại vựa phế liệu của ông Tạ Ngọc N, ông N thừa nhận có mua chiếc xe máy nêu trên của một người tên Cam ở Tô Châu nhưng không rõ địa chỉ và bán lại cho Khổng Hữu N, xe không có giấy tờ. Do chiếc xe máy này đã sang bán cho nhiều người, không có giấy tờ và bị cáo sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi trộm cắp nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật.
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và chủ sở hữu không nhận lại tại các mục từ số 1 đến số 22. Tịch thu sung công vật chứng là 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 53R9-7753, màu sơn đỏ, số máy:
150FG4P101732; số khung: RRKWCB5UMCXB07047, không có giấy đăng ký xe mô tô, xe máy theo quy định (xe đã qua sử dụng) là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Phạm Thị T (ủy quyền cho ông Chu Hồng H) không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại. Bị cáo đồng ý bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại theo kết quả định giá là 75.600 đồng cho Ban Quản lý công trình đô thị thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.
[9] Về án phí: Buộc bị cáo Khổng Hữu N phải chịu án phí dân sơ thẩm và án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 30, Điều 106, Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Tuyên bố bị cáo Khổng Hữu N phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Xử phạt bị cáo Khổng Hữu N 01 (một) năm tù, tính từ ngày tạm giam bị cáo ngày 17/01/2023.
2. Xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy các vật chứng là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và chủ sở hữu không nhận lại (tại các mục từ số 1 đến số 22) hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án thành phố Hà Tiên, gồm:
1. Dây điện chiều dài 0,88m, đường kính 03cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
2. Dây điện dài 28,44m (gồm 21 đoạn) đường kính 2,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
3. Dây điện dài 1,5m (gồm 02 đoạn) đường kính 1,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
4. Dây điện dài 4,47m (gồm 03 đoạn) đường kính 1,5cm, có lõi kim loại nhiều sợi màu vàng, vỏ dây điện bằng nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
5. Một cây kéo cắt cộng lực dài 62cm, tay cầm bộc nhựa màu xanh, có chữ TOTAL (đã qua sử dụng);
6. Một cây kéo cắt cộng lực dài 21cm, tay cầm bộc nhựa màu xanh (đã qua sử dụng);
7. Một cây kéo cắt ống dài 20cm, có chữ LS+ (đã qua sử dụng);
8. Một cây xà beng dài 59cm, lưỡi rộng 07cm, cán bộc nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
9. Một cây dao dài 26cm, cán nhựa màu xanh (đã qua sử dụng);
10. Một cái mũ lưỡi trai màu xám, bên trên có chữ THE NORTH FACE (đã qua sử dụng);
11. Một cái mỏ lết dài 25cm, có chữ FORGED (đã qua sử dụng);
12. Một đôi dép màu đỏ sọc đen, có chữ OUWA (đã qua sử dụng);
13. Một cây búa dài 43cm, cán làm bằng gỗ dài 38,5cm, đường kính 01cm;
đầu búa làm bằng kim loại đầu 4,5cm, rộng 03cm (đã qua sử dụng);
14. Một cây búa dài 81,5cm, cán làm bằng gỗ dài 79cm, đường kính 3,5cm;
đầu búa làm bằng kim loại đầu 6,5cm, có dạng hình trụ có kích thước (2,5 x 16 x 6,5)cm (đã qua sử dụng);
15. Một cây cưa 41cm, cán làm bằng kim loại, màu sơn đỏ, có lưỡi dài 31cm (đã qua sử dụng);
16. Một cây cưa 31cm, làm bằng kim loại, màu sơn xanh (đã qua sử dụng);
17. Một cây xà beng dài 85cm, làm bằng kim loại sắt (đã qua sử dụng);
18. Một cây len đào đất dài 49cm, cán làm bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại (đã qua sử dụng);
19. Một cây len đào đất dài 59cm, lưỡi rộng 07cm, cán bọc nhựa màu đen (đã qua sử dụng);
20. Mười hai cây kim loại sắt phi 6, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 2,3kg (đã qua sử dụng);
21. Sáu cây kim loại sắt phi 10, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 2,5kg (đã qua sử dụng);
22. Sáu cây kim loại sắt phi 12, dạng tròn, rỉ sét, trọng lượng 3,6kg (đã qua sử dụng);
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước vật chứng mục số 23 là 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 53R9-7753, màu sơn đỏ, số máy: 150FG4P101732; số khung: RRKWCB5UMCXB07047, không có giấy đăng ký xe mô tô, xe máy theo quy định (xe đã qua sử dụng) là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án thành phố Hà Tiên.
3. Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Khổng Hữu N bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại theo kết quả định giá là 75.600 đồng cho Ban Quản lý công trình đô thị thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.
4. Về án phí: Buộc bị cáo Khổng Hữu N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), tổng cộng bị cáo phải nộp 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng).
Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại Ban Quản lý công trình đô thị thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị hại bà Phạm Thị T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Ngọc T, Tạ Ngọc N vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 18/2023/HS-ST
Số hiệu: | 18/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về