Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 07/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 07 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2023/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 5 năm 2023, quyết định hoãn phiên tòa số 01/2023/QĐ-HPT ngày 01/6/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Y Y K; (Tên gọi khác: B ) Giới tính: Nam; Sinh ngày: 01/01/1998 tại tỉnh Đ; Nơi ĐKHKTT: Buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ; Chỗ ở hiện nay: Buôn E, xã K N, huyện B Đ, tỉnh Đ;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Gia Rai; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Làm Nông; Trình độ học vấn: 03/12;

Con ông: Y S K; Sinh năm: 1971 (đã chết) và con bà: H L K; Sinh năm: 1977;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/2/2023 đến ngày 24/2/2023; được hủy bỏ biện pháp tạm giữ và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại Buôn E, xã K N, huyện BĐ, tỉnh Đ(có mặt).

2. Họ và tên: Y Khăm P B;

Giới tính: Nam; Sinh ngày: 05/10/1971 tại tỉnh Đ; Nơi ĐKHKTT: Buôn Đ, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ; Chỗ ở hiện nay:Buôn Đ, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Êđê; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: Không biết chữ;

Con ông: Nay S Lào; Sinh năm: 1930 (đã chết) và con bà: H’ Đ B; Sinh năm: 1938 (đã chết).

Bị cáo có vợ: H’ L N; sinh năm 1972.

Bị cáo có 05 con ruột (lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2005).

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 15/02/2023, tạm giam từ ngày 24/02/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện BĐ, tỉnh Đ (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Y Y K: Ông Phùng Văn H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Y Khăm P B: Ông Nguyễn Hữu H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ (có mặt).

- Người bị hại:

+Bà H M K - sinh năm 1958.

Địa chỉ: Buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ (có mặt).

- Người có quyền lợi liên quan: Bà H L K – sinh năm 1977 Địa chỉ: Buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ.

- Người phiên dịch : Ông Bun M Lào – công tác tại phòng Dân tộc và tôn giáo huyện Buôn Đôn (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15h00 phút ngày 14/02/2023, Y Khăm P B đến nhà Y Y K tại Buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ cùng nhau uống rượu. Do trước đó vài ngày Y Y K phát hiện có con bò không ai trông coi thường xuyên thả ăn cỏ tại khu vực gần nhà thuộc Buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ nên trong lúc ngồi uống rượu Y Y K đã rủ Y Khăm P B đi ăn trộm con bò này, được Y Khăm P B đồng ý. Sau đó, Y Y K lấy 02 con dao (kích thước mỗi con dao khoảng 30cm, màu đen, dạng bầu) trong nhà của Y Y K và dẫn Y Khăm P B đến nơi có 01 con bò đang được thả ở khu vực trên. Lúc này, Y Y K mở dây buộc bò và đưa dây cho Y Khăm P B, cả 02 người cùng dắt bò đi ra cách khu vực ban đầu khoảng 300m. Y Khăm P B buộc con bò vào một gốc cây lớn, Y Y K sử dụng con dao cầm theo chặt 01 khúc cây đập liên tiếp vào đầu và gáy con bò đến khi thấy con bò chết. Lúc này, Y Y K và Y Khăm P B sử dụng 02 con dao đã mang theo mổ con bò thành nhiều bộ phận, Y Y K trực tiếp mổ lấy 04 cái đùi bò, Y Khăm P B cắt đầu bò, mổ bụng bò lấy nội tạng, chặt đuôi bò và cắt 04 cái cẳng dưới chân bò. Lúc mổ bò xong Y Y K phân công Y Khăm P B vận chuyển số bò thịt được về nhà Y Y K tại Buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ, Y Khăm P B vận chuyển gồm: 04 cái đùi bò, 01 bộ nội tạng, 01 cái đầu bò, còn bị can Y Y K ở lại. Để lại hiện trường gồm khúc cây dùng để đập con bò, 02 con dao dùng để mổ bò và phần thịt bò còn lại (gồm: 04 cái cẳng bò, 01 đuôi bò, 01 thân bò). Quá trình điều tra xác định con bò mà Y Y K và Y Khăm P B trộm cắp được là của bà H M K; sinh năm:

1958; trú tại: Buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ thường hay cột tại gốc bụi cây khu vực phía sau nhà cộng đồng Buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đ để ăn cỏ.

Vật chứng của vụ án cơ quan điều tra thu giữ gồm:

- 01 (một) con dao kích thước: chiều dài 37cm, rộng 5cm, cán dao gỗ, chuôi màu đồng, có bọc dao bằng nhựa màu đen, dây dù màu xanh quấn quanh bọc dao.

- 01 (một) con dao kích thước: chiều dài 37cm (Phần lưỡi dao dài 24cm, rộng 5cm; cán dao 13cm); Cán dao gỗ hình trụ, hai đầu cán dao bọc kim loại.

- 01 (một) khúc cây (chiều dài khúc cây khoảng 130cm, đường kính 01 đầu khoảng 3cm, 01 đầu đường kính khoảng 5cm, màu nâu đen).

- Tổng trọng lượng con bò được thu giữ là 71,5kg gồm: 04 (bốn) cái đùi bò có trọng lượng 30kg; 01 (một) bộ nội tạng có trọng lượng 5,5kg và 01 (một) cái đầu bò có trọng lượng 08kg và phần thân bò (xương và thịt) có trọng lượng 24kg;

01 (một) Đuôi bò có trọng lượng 04kg.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 05/KL-ĐGTS ngày 15/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân huyện BĐ kết luận: Tài sản do Y Y K và Y Khăm P B trộm cắp là 01 con bò Laisine 24 tháng tuổi có trọng lượng là 142 kg tại thời điểm ngày 14/02/2023 là 11.000.000 đ (Mười một triệu đồng).

Bản Cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 04 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn đã truy tố các bị cáo Y Y K và Y Khăm P B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi do các bị cáo thực hiện, lời khai của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn.

Tại phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn trên cơ sở phân tích đánh giá tính chất vụ án, chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự tuyên bố các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 khoản 1 Điều 173 Bộ Luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Y Y K mức án từ 09 tháng tù đến 01 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Y Khăm P B mức án từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Buôn Đôn trả lại 71,5 kg thịt bò là phần còn lại của con bò bị trộm cắp cho bà H M K.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) con dao kích thước: chiều dài 37cm, rộng 5cm, cán dao gỗ, chuôi màu đồng, có bọc dao bằng nhựa màu đen, dây dù màu xanh quấn quanh bọc dao; 01 (một) con dao kích thước: chiều dài 37cm (Phần lưỡi dao dài 24cm, rộng 5cm; cán dao 13cm); Cán dao gỗ hình trụ, hai đầu cán dao bọc kim loại.

+ 01 (Một) khúc cây (chiều dài khúc cây khoảng 130cm, đường kính 01 đầu khoảng 3cm, 01 đầu đường kính khoảng 5cm, màu nâu đen).

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay giữa các bị cáo và bị hại thỏa thuận các bị cáo Y Y K và Y Khăm P B liên đới bồi thường cho bà H M K số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Theo phần, Y Y K và Y Khăm P B mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà H M K số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng). Thỏa thuận giữa các bị cáo và bị hại là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật, do đó đề nghị Tòa án công nhận thỏa thuận trên.

Người bào chữa cho bị cáo Y Y K: Ông Phùng Văn Hải – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ trình bày luận cứ bào chữa cho bị cáo Y Y K, đồng ý với những tình tiết giảm nhẹ mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị, áp dụng điểm h,i,s khoản 1 , khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65, khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự. Đề nghị cho bị cáo Y Y K được hưởng án treo theo mức thấp nhất hoặc dưới mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Về bồi thường dân sự đề nghị chấp nhận thỏa thuận giữa bị hại và các bị cáo tại phiên tòa. Về án phí xin miễn án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Y Khăm P B: Ông Nguyễn Hữu H– Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ trình bày luận cứ bào chữa cho bị cáo Y Khăm P B: đề nghị áp dụng điểm h,i,s khoản 1 , khoản 2 Điều 51, Điều 58 khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự. Đề nghị xét xử bị cáo Y Khăm P B mức án thấp nhất hoặc dưới mức đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Về bồi thường dân sự đề nghị chấp nhận thỏa thuận giữa bị hại và các bị cáo tại phiên tòa. Về án phí xin miễn án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Các bị cáo thừa nhận luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn là đúng người đúng tội, đúng pháp luật; thấy ân hận và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Buôn Đôn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định:

Vào chiều ngày 14/2/2023, Y Y K và Y Khăm P B đã cùng nhau lén lút thực hiện việc chiếm đoạt con bò của bà H M B với giá trị theo định giá là 11.000.000 đồng (mười một triệu đồng). Sau đó các bị cáo đã đập chết, xẻ thịt con bò để mang về nhà Y Y K.

Các bị cáo hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện cũng như hậu quả xảy ra nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác, đồng thời còn ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

Xét phần luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, cần chấp nhận.

Như vậy có đủ căn cứ kết luận: Các bị cáo Y Y K và Y Khăm P B đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Các bị cáo cùng nhau lén lút chiếm đoạt tài sản, nhưng không có phân công nhiệm vụ, thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Đối với Y Y K là người rủ rê lôi kéo, chuẩn bị công cụ phạm tội (02 con dao để mổ bò), cần phải xử Y Y K mức án nghiêm khắc hơn để cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và hậu quả xảy ra cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo và góp phần răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn vì vậy cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm h,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về áp dụng hình phạt:

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn về việc áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật và thỏa đáng. Cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, diểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Buôn Đôn trả lại 71,5 kg thịt bò còn lại thu giữ được của con bò bị trộm cắp cho bà H M K.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao kích thước: chiều dài 37cm, rộng 5cm, cán dao gỗ, chuôi màu đồng, có bọc dao bằng nhựa màu đen, dây dù màu xanh quấn quanh bọc dao; 01 (một) con dao kích thước: chiều dài 37cm (Phần lưỡi dao dài 24cm, rộng 5cm; cán dao 13cm); Cán dao gỗ hình trụ, hai đầu cán dao bọc kim loại.

+ 01 (một) khúc cây (chiều dài khúc cây khoảng 130cm, đường kính 01 đầu khoảng 3cm, 01 đầu đường kính khoảng 5cm, màu nâu đen).

(Có đặc điểm như biên bản bàn giao ngày 08/5/2023 giữa Công an huyện Buôn Đôn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Buôn Đôn).

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại tại phiên tòa giữa bị hại bà H M K và các bị cáo Y Y K, Y Khăm P B: Các bị cáo Y Y K và Y Khăm P B liên đới bồi thường cho bà H M K số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Theo phần, Y Y K và Y Khăm P B mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà H M K số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật cần chấp nhận

[8] Về án phí: Áp dụng Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; miễn án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Y Y K và Y Khăm P B phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Y Y K 01(một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/2/2023 đến ngày 24/2/2023.

- Xử phạt bị cáo Y Khăm P B 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ 15/2/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, diểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Buôn Đôn trả lại 71,5 kg thịt bò còn lại thu giữ được của con bò bị trộm cắp cho bà H M K.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) con dao kích thước: chiều dài 37cm, rộng 5cm, cán dao gỗ, chuôi màu đồng, có bọc dao bằng nhựa màu đen, dây dù màu xanh quấn quanh bọc dao; 01 (Một) con dao kích thước: chiều dài 37cm (Phần lưỡi dao dài 24cm, rộng 5cm; cán dao 13cm); Cán dao gỗ hình trụ, hai đầu cán dao bọc kim loại;

+ 01 (một) khúc cây (chiều dài khúc cây khoảng 130cm, đường kính 01 đầu khoảng 3cm, 01 đầu đường kính khoảng 5cm, màu nâu đen).

(Có đặc điểm như biên bản bàn giao ngày 08/5/2023 giữa Công an huyện Buôn Đôn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Buôn Đôn).

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 587 Bộ luật Dân sự Công nhận sự thỏa thuận tại phiên tòa giữa bị hại bà H M K và các bị cáo Y Y K, Y Khăm P B: các bị cáo Y Yao K và Y Khăm P B liên đới bồi thường cho bà H M K số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Theo phần, Y Y K và Y Khăm P B mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà H M K số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 12 nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm cho các bị cáo Y Y K và Y Khăm P B.

5. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp phần trách nhiệm dân sự của bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Buôn Đôn - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về