Bản án về tội trộm cắp tài sản số 171/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 171/2021/HS-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 172/2021/TLST- HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Đoàn Nam D, sinh năm 1997 tại tỉnh H; nơi cư trú: Thôn M, xã K, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở: 19/A1, khu phố 3, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Ngọc Q và bà Nguyễn Thị C; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2021 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn L, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; tạm trú: D19/29 khu phố B, phường T, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lê Thị Ng, sinh năm 1994; nơi cư trú: Tổ 1, thị trấn L, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Trần Quốc H, sinh năm 1975, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 26/01/2021 bị cáo Đoàn Nam D đi bộ vào khu dân cư Thuận Giao, khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương tìm kiếm tài sản để lấy trộm. Khi D đi đến trước tiệm vàng Huy Thành Phát, địa chỉ số D19/29 khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì Dương phát hiện 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu HONDA, loại Vision màu xanh, biển số 76 E1 – 368.11 đang dựng trước cửa tiệm vàng và có cắm sẵn chìa khóa trên xe nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe này. Dương đi đến ngồi lên chiếc xe mô tô biển số 76 E1 – 368.11 đẩy lùi về phía sau mở khóa định khởi động xe bỏ chạy thì bị bị hại Phạm Văn T là chủ xe mô tô trên phát hiện bắt quả tang và trình báo cho Công an phường Thuận Giao tiếp nhận lập hồ sơ, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An để xử lý.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu HONDA, loại Vision màu xanh, biển số 76 E1 – 368.11.

Tại biên bản định giá tài sản và kết luận định giá tài sản ngày 01/02/2021 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision màu xanh, biển số 76 E1 – 368.11, có giá trị là 21.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 186/CT-VKS-TA ngày 24/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo Đoàn Nam D về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đoàn Nam D về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung Bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s Khoản 1; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đoàn Nam D từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập xử lý. Về xử lý vật chứng: Không đề cập xử lý.

- Bị cáo Đoàn Nam D trình bày ý kiến: Thống nhất với tội danh và điều luật như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Nam D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 26/01/2021 tại số nhà D19/29 khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương bị cáo Đoàn Nam D đã có hành vi lèn lút chiếm đoạt tài sản là 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu HONDA, loại Vision màu xanh, biển số 76 E1 – 368.11 trị giá 21.000.000 đồng của bị hại Phạm Văn T thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo Đoàn Nam D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo Đoàn Nam D về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật Hình sự và sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tư lợi nên cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả và pháp luật. Do đó cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo Đoàn Nam D có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại không lớn; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm h, i. s Khoản 1; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Đoàn Nam D mức hình phạt từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tháng tù là phù hợp nện được chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại Phạm Văn T xác định đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Vision màu xanh, biển số 76 E1 – 368.11 quá trình điều tra xác định chiếc xe do bà Lê Thị Ng đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Bà Ng khai nhận là vợ của ông Phạm Văn T, vào ngày 26/01/2021 ông T có sử dụng chiếc xe trên để đi công việc thì mất trộm. Theo đó, Cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe trên cho ông T và bà Ng là đúng quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo Đoàn Nam D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

+ Khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

+ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, 1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Đoàn Nam D phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt bị cáo Đoàn Nam D 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/01/2021.

2. Về án phí: Bị cáo Đoàn Nam D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 171/2021/HS-ST

Số hiệu:171/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về